Skip to content Skip to sidebar Skip to footer

Nguyễn Mộng Giác, dòng văn bên dòng sông côn – Luân Hoán

Luân Hoán

Nguyễn Mộng Giác, dòng văn bên dòng sông côn

Nguồn: https://damau.org/4968/nguyen-mong-giac-dong-van-ben-dong-song-con

Nguyễn Mộng Giác

Có một thời tôi từng tưởng lầm và tưởng bở: bốn chữ Địa Linh Nhân Kiệt chỉ dành riêng để vinh danh quê hương nghèo khó của người Quảng Nam. Về sau tôi mới hiểu ra, bốn chữ cao quí này được dùng rất rộng rãi, và có thể nói bất cứ vùng đất nào trên lãnh thổ Việt Nam, đều có thể, đều xứng đáng mang trước ngực bốn chữ đã trở thành “phổ thông” này. Như vậy thật công bình. Bởi tính chất thiêng liêng của mỗi vùng đất (địa linh) là điều có thật, được từng vị thổ địa làm “công an khu vực”, “quản lý” một cách nghiệm ngặt. Về nhân kiệt, tuy có sự chênh lệch, nhưng ít nhiều gì mỗi vùng đều có. Quảng Nam và Bình Định là hai vùng sinh sản ra nhiều “anh kiệt”, đồng thời cũng sản xuất những con dân có óc địa phương, cục bộ vào bậc nhất. Nếu có sự ganh đua, so tài giữa hai vùng này, dù bất cứ ở lãnh vực nào, cũng thường xảy ra những căng thẳng, gay go. Ngày tôi còn đi học, những lần đội bóng của trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng, đụng đội bóng của trường Cường Để Bình Định vẫn thường là những cuộc so giày nảy lửa, nhiều lúc dẫn đến “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”. Trong lãnh vực văn học, về nhân tài của Quảng Nam và Bình Định, chưa biết vùng nào lấn lướt hơn. Tôi có thể bị đồng hương quở là mất gốc, thiển cận với nhận xét: vào cuối thế kỷ 20, đội ngũ những người sinh hoạt văn học xuất thân từ Bình Định có lẽ nặng cân hơn Quảng Nam một chút. Nhân kiệt góp phần làm cho cán cân chênh lệch, tôi nghĩ, có lẽ không ai khác hơn là nhà văn Nguyễn Mộng Giác.

Căn cứ vào những sinh hoạt, Nguyễn Mộng Giác còn có thể được gọi là nhà báo, nhà biên khảo, nhà phê bình…nhưng tôi tin rằng ông Nguyễn Mộng Giác, không phải người ham mang trên mình quá nhiều loại “nhà”, như một số người đã làm, nên tôi chỉ gọi ông là nhà văn. Xét kỹ ra, hai tiếng “nhà văn” oai phong, lẫm liệt, được trọng vọng hơn hẳn nhà thơ, nhà báo, nhà biên khảo…rất nhiều.

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác sinh năm 1940 tại Ngân Sơn, Phú Yên, Bình Định. Theo một bài viết của nhà văn Nguyễn Mạnh An Dân, thời trung học, Nguyễn Mộng Giác là lứa học trò đầu tiên của trường trung học Cường Để, rồi lang thang đến trường Võ Tánh Nha Trang, làm sinh viên của Văn Khoa Sài Gòn. Cuối cùng con đường học vấn tại trường ốc của ông được kết thúc năm 1963 với mảnh bằng tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, ban Việt Hán. Ông tân thủ khoa được bổ dụng giảng dạy tại trường Nữ Trung học Đồng Khánh Huế. Sau hai năm, ông xin thuyên chuyển về trường Cường Để. Có được với đất thần kinh trên dưới sáu năm, Nguyễn Mộng Giác có nhiều cơ hội “Xin Huế Một Người Tình” và cô nữ sinh áo trắng Nguyễn Khoa Diệu Chi của trường Đồng Khánh đã bắt dính anh chàng Bình Định, vốn là ông thầy đáng kính của mình. Chẳng rõ họ có đưa nhau “về dinh” ngay trong chuyến đổi vị trí công tác của ông Giác hay không?

Về đến Bình Định, Nguyễn Mộng Giác được bổ nhiệm chức Giám Học ngay niên khóa sau, và đến năm 1971, ông lên làm Hiệu Trưởng trong hai niên khóa, rồi giữ chức Chánh Sở Học Chánh Bình Định Qui Nhơn. (Sở Học Chánh hình như được thành lập trong thời Đệ nhị nền Cộng Hòa Việt Nam, và bành trướng mạnh trong giai đoạn đảng Dân Chủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phát động. Sở có nhiệm vụ trông coi việc giáo dục của cả hai bậc trung và tiểu học). Ông thầy Nguyễn Mộng Giác quả đã không có duyên cận kề nhiều với hơi hám đám thư sinh, nên cuối năm 1974, được chuyển luôn vào Sài Gòn, làm chuyên viên nghiên cứu tại Bộ Giáo Dục. Đứng trên bục giảng hay ngồi điều nghiên, sưu tầm tại Nha sở, nơi nào chắc cũng có cái thú riêng. Và có lẽ cái nghề tay trái đang có mưu toan lấn lướt cái “nghề bán cháo phổi”, nên tôi tin ông Nguyễn Mộng Giác bằng lòng với công việc mới của mình hơn. Nhưng cái nghĩa vụ công chức của thầy giáo Giác không kéo dài được lâu. Ông là người đầu tiên của Nha Nghiên Cứu Sưu Tầm Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa được chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa cho nghỉ việc. Và có lẽ ông cũng được mời tham dự nhiều lớp bổ túc chính trị. Những kinh nghiệm trong thời chống Pháp mà ông Nguyễn Khắc Phê nhắc trong bài “tản mạn nhân gặp lại nhà văn Nguyễn Mộng Giác” trên Talawas: “… Tuy còn nhỏ tuổi học sinh, chúng tôi đều được tổ chức cho học tập kiểm điểm tự thú những hành vi tư tưởng hủ bại ‘mất lập trường giai cấp’ ”, chắc chưa đủ để một ông ngụy quyền có văn bằng cấp Đại học thư thả trong cuộc đổi đời mới. Chính vì thế, ròng rã trong sáu năm, ông Nguyễn Mộng Giác xoay đời mình theo nhiều nghề lao động chân tay khác nhau. Ông đã vinh quang đi bán sách cũ ở chợ trời, rồi làm công nhân hẳn hoi trong tổ hợp mì sợi Dân Sinh ở Chợ Lớn. Cuối cùng ông chọn lối thoát vượt biên và sau bốn lần giỡn mặt với tử thần, ông và cậu con trai mới qua đến đảo Kulu, Galang Nam Dương vào cuối năm 1981. Đến tháng 11 năm 1982 cha con ông được nhận vào Hoa Kỳ. Trước đó không lâu, trưởng nữ của ông đã định cư tại Houston, Texas. Họ gặp nhau. Nhưng ba cha con ông không ở với thành phố nắng ấm này lâu. Họ dắt nhau về California, và bắt đầu cuộc sống mới từ năm 1983. Những năm đầu sống trên đất người được nhà văn Nguyễn Mộng Giác cho biết ngắn gọn:

“…Bốn năm đầu, tôi vừa học nghề thợ in vừa làm thuê cho báo Việt ngữ ở quận Cam. Công việc nhiều mà lương ít ỏi quá, không đủ gởi về cho nhà tôi và cháu út còn ở lại, nên từ năm 1987, tôi xin làm cho công ty ấn loát niên giám điện thoại GTE của Mỹ. Công việc ấy tôi giữ được lâu bền hơn mười năm qua, từ 1987 đến nay. Nhà tôi và cháu út qua Mỹ tháng 3 năm 1990 trong chương trình đoàn tụ gia đình (ODP)”

(Nguyễn Mộng Giác, trả lời phỏng vấn Đặc san Cường Để-1998)

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác cho biết, ông khởi viết rất sớm, từ thời sinh viên. Nhưng khác với nhiều người, ông đã không gởi bài đến các tạp chí. Ông đã hủy bỏ khá nhiều bản thảo sau khi đọc những tác phẩm lỗi lạc của các văn hào thế giới. Sự thận trọng cầm chân ông khá lâu, cho đến dịp ông bén duyên cùng tạp chí Bách Khoa, năm 1971, lúc đó ông vừa vượt qua lứa tuổi “tam thập”.

Miền Nam, nhất là Sài Gòn, lúc bấy giờ truyện chưởng Kim Dung được đón nhận thành một phong trào rầm rộ. Truyện của cây bút người Trung Hoa vẫn còn đang ở nước Tàu này được dịch đăng từng kỳ, tràng giang đại hải trên các nhật báo, tuần báo…in thành sách, thu hút mạnh mẽ bạn đọc từ bình dân đến trí thức. Thuở thiếu thời, tôi đã bị bội thực loại truyện kiếm hiệp cấp thấp hơn, nên thoạt tiên không có nhiều thích thú đến với những Vi Tiểu Bảo, Vô Kỵ, Nhạc Bất Quần, Trương Tam Phong, Lão Ngoan Đồng, Kiều Phong, Lâm Bình Chi…Nhưng rồi Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung, từ suy nghĩ, phân giải của một nhà giáo, sừng sững thành sách năm 1972, đã cù rủ tôi trở lại với truyện chưởng và tức thì, tôi say mê những Triệu Minh, Doanh Doanh, Hoàng Dung, Chu Chỉ Nhược, Hân Tố Tố…Dù thật sự, tôi chưa được đọc trọn vẹn cuốn tiểu luận về Kim Dung của nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Tôi chỉ đọc loáng thoáng đâu đó từng đoạn rời. Giá trị đích thực của cuốn tiểu luận đối với cá nhân tôi chính là cái uy tín của tác giả ngày một nổi bật giữa làng viết Sài Gòn. Tôi biết danh Nguyễn Mộng Giác từ dạo ấy. Tạp chí Bách Khoa cũng là tờ báo tôi thường se sua làm dáng với bạn bè, nên cái tên Nguyễn Mộng Giác, trụ dưới truyện dài Qua Cầu Gió Bay làm tôi cảm thấy mỗi ngày một thân quen hơn.

Từ Bách Khoa, ông Nguyễn Mộng Giác đã tự tin, đã vượt qua cái khớp trước những đàn anh lỗi lạc, ông viết đều tay một cách vững vàng. Những tác phẩm đầy đủ giá trị văn học nghệ thuật của ông tuần tự ra mắt bạn đọc. Năm 1973 với tập truyện ngắn Bão Rớt và cuốn truyện dài Tiếng Chim Vườn Cũ được nhà xuất bản Trí Đăng phát hành. Qua năm 1974, hai cuốn truyện dài ra đời, Qua Cầu Gió Bay do Văn Mới in và Đường Một Chiều, được ra mắt bạn đọc bởi nhà xuất bản Nam Giao. Tác phẩm Đường Một Chiều đã mang đến cho tác giả giải thưởng của Trung tâm Văn bút Việt Nam năm 1974.

Đường Một Chiều là một cuốn tiểu thuyết tình cảm, phản ảnh một góc nhỏ xã hội miền Nam trong thời chinh chiến. Nhân vật chính là một sĩ quan cấp tá của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông đồn trú xa nhà với chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng một tiểu đoàn tác chiến. Hành quân là “nghề của chàng”. Cho đến một hôm, tương tự như anh lính Hữu Loan, ông thiếu tá nhận được một điện tín với tin không vui: vợ ông qua đời. Gia đình ông gồm Thúy, vợ ông, bé Ly, 14 tuổi con riêng của bà Thúy. Ngoài ra, hạ sĩ Ninh, được vợ chồng ông xem như em, ở chung nhà, vừa làm nhiệm vụ tài xế vừa làm quản gia cho gia đình. Chính Ninh là người mở ra thảm kịch gia đình cho thiếu tá Lộc. Xa vắng gia đình lâu ngày và thường trực cận kề với cái chết, những người lính hay tạo cho mình những cơ hội để tạm “lãng quên đời” đó là cái thú uống ruợu. Hạ sĩ Ninh tốt số, được mang chữ thọ to tướng trên người, nhưng chàng thanh niên hai mươi tuổi này, có lẽ vì “lửa gần rơm” lâu ngày nên sinh tật. Gã mượn rượu để tỏ tình. Trong một lần “tới chỉ” với vài người bạn cùng đơn vị, gã bước thấp bước cao ra về và vô tình đi lạc vào tận phòng ngủ của bà Lộc. Chuyến gõ cửa tình dục của Ninh không nhằm giờ, gã bị Thiếu tá phu nhân chống cự. Trong giằng co, Ninh đã kết liễu cuộc đời người đàn bà xuất thân vũ nữ, bằng mười ngón tay thô bạo của gã . Tất cả hoạt cảnh này diễn ra trước mắt quan sát của Ly. Nhưng cô lolita, chẳng rõ lòng đã biết yêu, biết hận gì chưa mà đã không nói ra sự thật trước những viên điều tra của Quân cảnh tư pháp, cũng như trước phiên xử của Tòa án Quân sự. Án mạng có nhiều nghi vấn chưa được làm sáng tỏ. Giữa những tranh luận sôi nổi của Ủy viên chính phủ và Luật sư biện hộ, bỗng có thêm một nhân vật xuất hiện. Người đó là chồng cũ của Thúy, người mà bà Thiếu tá nói dối với chồng là đã chết. Và càng gay cấn, bất ngờ hơn, khi pháp luật chưa tìm được sự liên quan giữa cái chết của Thúy và người chồng cũ, thì Ninh đột ngột tự sát trong quân lao cùng sự bỏ nhà đi bụi của Ly.

Tôi ý thức được việc tóm lược một cốt truyện nặng tính cách văn học phải hoàn toàn chính xác và với giọng văn nghiêm chỉnh. Nhưng tôi đã không làm nổi điều đó, trí nhớ tôi đã quá cùn mòn. Nhưng không thuật đại khái lại tình tiết của câu chuyện thì tôi tự thấy thiếu thiếu một cái gì. Có lẽ vì tác phẩm trúng giải quan trọng của nhà văn Nguyễn Mộng Giác tôi không tìm thấy tại nơi tôi đang cư ngụ. Và trong nước, sau thời kỳ ông Tần Thủy Hoàng tái sinh lộn trên đất Việt Nam, chắc gì đã tìm ra được Đường Một Chiều. Tôi bạo gan vì vậy, dám mong tác giả và bạn đọc nhắc nhở, bổ sung. Đọc cốt truyện, dù chính xác trăm phần trăm cũng không tìm hiểu được văn phong, tư tưởng của tác giả. Chỉ biết đại khái về cốt truyện không thể lượng định được giá trị văn học của một tác phẩm. Hơn nữa, cùng một cốt truyện, nhưng nhiều người viết, hay dở khác nhau là chuyện thường. Cái tài của nhà văn, nằm trong suy nghĩ và diễn đạt riêng của mỗi người. Do đó, từ một cốt truyện có thể không có gì mới lạ, chỉ là những mẩu đời thường mà thể hiện thành tác phẩm có giá trị văn học, được nhiều người có uy tín công nhận, không phải là chuyện dễ. Tôi vẫn nghĩ, giải thưởng của Trung tâm Văn bút Việt Nam là một giải cao quí, và ban giám khảo là những người có cái tâm trong sáng với văn học. Có đến năm vị trong ban giám khảo: Nguyễn Thị Vinh, Tam Lang, Nhật Tiến, Sơn Nam, Phạm Việt Tuyền

Phát biểu về giá trị Đường Một Chiều, nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn viết:

“ Theo tôi, đó là một tác phẩm được sáng tác rất công phu. Say sưa mà vẫn thận trọng, đầy cảm hứng mà vẫn tiết chế, cô đọng bằng một kỹ thuật cao và khéo léo, nội dung chứa nhiều ý tưởng phong phú mà hình thức vẫn gọn gàng lôi cuốn. Những đặc điểm đó khiến Đường Một Chiều đích thực là một tác phẩm văn chương đúng nghĩa…Truyện của Nguyễn Mộng Giác thường đặt ra cho người đọc những câu hỏi, tác giả không trả lời, chính mỗi người chúng ta, nếu chúng ta là những độc giả không ngại phải băn khoăm suy nghĩ khi đọc sách thì chính mỗi người trong chúng ta sẽ tự tìm lấy câu trả lời riêng cho mình… Điểm đáng đề cao hơn nữa của truyện Đường Một Chiều, tác phẩm thứ năm của Nguyễn Mộng Giác, là thêm một lần nữa chứng tỏ cái ý hướng trách nhiệm của tác giả đối với xã hội. Truyện của Nguyễn Mộng Giác bao giờ cũng từ chối làm chiều long những kẻ trưởng giả giầu sang, ăn chơi phè phỡn, hưởng thụ chán chê rồi học đòi triết lý thời trang rằng cuộc đời là hư vô, phi lý, buồn nôn.”

(Văn Học số 233 tháng 9 và 10-2006)

Ý kiến hội của đồng giám khảo do nhà nghiên cứu văn học, ông Phạm Việt Tuyền đại diện, tiên đoán và khen ngợi:

“…Phần đông độc giả sau này chắc sẽ phải đọc một hơi từ đầu đến cuối cuốn tiểu thuyết như một số vị trong Hội Đồng Tuyển Trạch, bởi vì tình tiết rất hấp dẫn…Khi đã xảy ra thành sự kiện thực tế rồi thì vẫn còn tạo bâng khuâng triết lý như tách trà thơm, ly rượu ngon đượm thêm tình nghĩa nặng sâu…”

Đường Một Chiều bất ngờ mở vào Cul de Sac. Dấu chấm hết là quà tặng của chính quyền đất nước thống nhất dành cho những người cầm bút đã từng nặng lòng với miền Nam. Rất may những người có lòng với chữ nghĩa vẫn lặng lẽ sáng tác. Riêng nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã khởi hành trở lại vào năm 1977. Và lần này, có lẽ nhờ không bận tâm in ấn, phổ biến qua báo chí, chi phối thời gian, nên ông đi một đường thong dong. Bộ trường thiên tiểu thuyết đầu tiên mang tên Sông Côn Mùa Lũ được hoàn tất năm 1981. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã trình bày vắn tắt về tác phẩm kỳ vỹ này với các bạn sinh viên đại học Berkeley:

“…Nói chung, bộ trường thiên lấy khung cảnh thời Tây Sơn, thế kỷ 18 và khởi đầu là sự nghiệp của anh em nhà Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và chấm dứt khi Nguyễn Huệ mất. Đây là thời gian có nhiều biến động. Quan trọng là qua những biến động đó, cái thử thách dành cho người đương thời, nhất là những nho sĩ, những người viết lách, những người có trình độ trí thức cao phong phú lắm. Mỗi người một thái độ phản ứng khác nhau. Từ thái độ bất hợp tác với triều mới như Lý Trần Quán, đến thái độ hợp tác như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, đến người thuộc loại cơ hội như Nguyễn Hữu Chỉnh. Một thời đại mà tất cả biến động của lịch sử và cái phức tạp của đời sống hiện ra trọn vẹn, giống như những phức tạp hiện ra trong thời kỳ cộng sản ở Việt Nam vậy, giống nhau lắm. Và vì giống như vậy, thay vì trực tiếp viết về cộng sản, tôi chuyển qua hai thế kỷ trước viết về thời Tây Sơn. Có nhiều hoàn cảnh mà tôi suy từ thời mình bây giờ sang thời trước…”

Trước sự hứng thú lắng nghe của đám sinh viên, nhà văn Nguyễn Mông Giác cũng đã hào hứng nhắc lại những kỷ niệm trong khi hoàn thành tác phẩm:

“…Hoàn cảnh viết bộ truyện này là hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Sau năm 1975, tôi đang làm chuyên viên nghiên cứu tại Bộ Giáo dục Sài Gòn (BGDSG) thì bị cho nghỉ việc. Tôi bán sách cũ ngoài chợ trời hai năm, sau đó xin làm công cho một tổ hợp mì sợi. Các bạn có gia đình qua sau năm 1975 biết là cả nước Việt Nam trong giai đoạn thiếu gạo và phải ăn bo bo, nhập cảng bột mì rồi làm mì sợi để sống. Tôi làm công nhân cho một tổ hợp mì sợi từ năm 1978 đến năm 1981. Chương trình làm việc của tôi thời kỳ này là 6 giờ sáng đem một lon cơm, đạp xe từ Thị Nghè tới Phú Lâm làm việc. Làm việc từ 8 giờ sáng cho đến 12 giờ trưa. 12 giờ nghỉ ăn cơm, ăn cơm xong từ 12 giờ đến 2 giờ thì ngồi viết. Xong rồi, làm việc từ 2 giờ đến 8 giờ. Sau đó 8 giờ thì ra khỏi xưởng, chở mì sợi đi bán, về tới nhà khoảng 10 giờ tối, và ngồi viết từ 10 giờ cho đến 12 giờ. Viết trong tình trạng làm việc và viết như vậy trong bốn năm thì hoàn tất bộ trường thiên tiểu thuyết này, dày 2000 trang. Nói như vậy, không có nghĩa là tôi có khả năng viết trọn vẹn cả bộ truyện. Trong thời gian viết, bộ truyện này bị ngưng lại vì hai lần tôi ở tù. Lần đầu viết xong cuốn ba thì tổ hợp mì sợi bị đóng cửa rồi ban điều hành tổ hợp bị bắt. Năm 1979, các bạn nhớ đó là thời gian Việt Nam và Trung Quốc đánh nhau. Tổ hợp tôi làm việc là một tổ hợp của người Hoa. Công an Sài Gòn nghi ngờ tổ hợp làm gián điệp cho Trung Cộng nên tất cả ban điều hành đều bị bắt. Tôi bị kẹt trong đó 4 tháng, đang làm ăn bình thường thì bị bắt như vậy. Bốn tháng sau, được thả ra, tôi tiếp tục viết, đến gần xong phần kết từ ở cuốn thứ tư thì có mối vượt biên ở Vũng Tàu. Vượt biên không thành công, tôi bị bắt lần nữa và lần này bị giam bốn tháng. Sau khi được thả ra, tôi về viết xong phần kết. Tháng 10 năm 1981 thì hoàn tất bộ này, tôi đóng và để lại cho nhà tôi giữ và đi vượt biên. May mắn vượt biên lần này thành công…”

Công sức đáng phục của nhà văn Nguyễn Mộng Giác sẽ chỉ còn trong trí nhớ và niềm hồi tưởng, buồn tiếc của riêng ông, nếu ông không có một người bạn đời tuyệt vời. Tôi vẫn tự cho rằng mình có nhiều khả năng “nịnh đầm”, biết ngợi ca những người đẹp tài hoa, nhưng sao chợt vụng về, tìm không được một từ nào khả dĩ thích hợp, để tán thưởng cái tài bảo quản tác phẩm và đưa chúng đến được nơi chốn, chúng có thể chào đời của chị Nguyễn Khoa Diệu Chi. Từ chỗ xé lẻ để cất giữ đến mưu mẹo qua mắt sự kiểm soát gắt gao của an ninh phi trường là cả một nghệ thuật, đòi hỏi sự bình tĩnh và khôn khéo tuyệt hảo. Với tư cách một độc giả, tôi xin được cảm ơn người đi bên đời nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Còn ông, xét ra không cần thiết, vì đó là chức phận thiêng liêng và tự nhiên của ông. Lẽ ra ông phải cảm ơn ngược những bạn đọc có lòng mới phải phép. Đùa vô duyên vậy thôi, xin đừng giận, ông nhà văn.

Vịn vào một thời đại đã qua để mô tả những biến động lịch sử cùng những diễn tiến hỗn tạp của xã hội đương thời là một dụng ý khá quan trọng của tác giả Sông Côn Mùa Lũ. Tôi không rõ những người điều hành, chỉ huy nền văn học nghệ thuật Xã Hội Chủ Nghĩa có đánh hơi ra được điểm này ? Chắc là có. Có nhưng họ vẫn biểu quyết để thông qua việc in và phát hành rộng rãi tác phẩm này trong nước, chỉ vì một lý do: giá trị đích thực về mặt văn học và nghệ thuật của tác phẩm. Từ rất lâu, vấn đề giao lưu văn hóa giữa trong và ngoài Việt Nam vẫn chỉ thập thò một chiều. Bàn tay đưa ra trước vốn của người rộng lượng, cởi mở. Trên những khán đài quyền thuật, đa số những võ sĩ thắng trận thường đến bắt tay, thân thiện với kẻ chiến bại. Những người cộng sản Việt Nam kể như đã thắng trong việc thống nhất lãnh thổ, nhưng họ vẫn sợ, chưa dám chấp nhận giao lưu văn hóa. Chẳng lẽ họ đã thua ở một bình diện nào đó ? Trên những tạp chí dưới đất hay trên mạng điện toán của Việt Nam, gần như không bao giờ dám nhắc đến những sinh hoạt văn học tại hải ngoại, trừ một vài tin về âm nhạc không thuộc “thế lực chống phá chế độ”. Những tạp chí Hợp Lưu, Văn Học, Việt… thỉnh thoảng có về được trong nước, hoặc được nhắc tên đâu đó một đôi lần, chắc cũng do một vài cá nhân còn giàu lãng mạn hoặc “điếc không sợ súng’. Trường hợp Sông Côn Mùa Lũ do đó trở thành một hiện tượng lạ. Dù sao cũng là điều đáng mừng.

Nhờ phát hành trong nước, Sông Côn Mùa Lũ được đón đọc rộng rãi. Những câu chữ sau đây của Hoàng Linh trên báo điện tử Tiền Vệ, cho chúng ta biết ít nhiều về giá trị của những sáng tác từ hải ngoại và tiếng vang không nhỏ của Sông Côn Mùa Lũ:

“…Có thể nói không cường điệu rằng, nếu năm 1998 là năm văn chương hải ngoại chiếm lĩnh sự chú ý của công luận trong nước, thì nửa năm đầu thuộc về tạp chí Văn Học (Mỹ) và nửa năm sau thuộc về Sông Côn Mùa Lũ và tạp chí Việt (Australia)…”

Ông Trần Độ, một quan chức cấp cao của chế độ xã hội chủ nghĩa, đã hồi hưu, cũng rất ưng ý với Sông Côn Mùa Lũ, ông viết:

“Sau khi viết thiên bút ký “Một cái nhìn trở lại “, tôi vẫn tiếp tục suy nghĩ và thấy ra rằng còn phải nhìn lại nhiều vấn đề lắm. Trong khi thấy như vậy thì lại đọc thêm một số sách về sử và vài cuốn tiểu thuyết. Trong có một cuốn mà tôi gặp trong đó nhiều ý nghĩ, nhiều tư tưởng có thể gợi cho tôi nhiều suy nghĩ. Đó là một bộ tiểu thuyết lịch sử tên là “Sông Côn Mùa Lũ “, tác giả là Nguyễn Mộng Giác nói về giai đoạn lịch sử nửa sau thể kỷ 18 ở miền Trung nước ta, về phong trào Tây Sơn của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ. Tiểu thuyết dựng lại chân dung nhiều nhân vật lịch sử và cũng hư cấu chân dung một số nhân vật của thời đại đó, một cách sinh động, để làm nổi thêm các nhân vật lịch sử có thật. Qua sự việc và lời lẽ của các nhân vật, tác giả nêu lên những tư tưởng và những vấn đề của thời kỳ lịch sử đó mà cũng có nhiều ý nghĩa thời sự. ..”

Chẳng thể nào lượm hết những bày tỏ về Sông Côn Mùa Lũ, tôi xin nhắc lại một kỷ niệm riêng: Nhớ đã lâu, sau khi mượn từ thư viện Côte des Neiges về, tôi tạm để bộ trường thiên này bên bàn nước phòng khách, cậu út của tôi đi ngang, chợt đứng nhìn cái bìa một chặp, rồi thích thú với khám phá:

Sách in trật lất chính tả rồi, sông “con” mà có ô, thật…”

Cậu chưa nói hết câu, tôi đã mỉm cười sửa lưng:

Không phải sông con, sông cái đâu con. Đây là danh từ riêng, tên một dòng sông ở Bình Định như sông Hàn ngoài mình vậy…”

Cậu út tôi đứng ngẩn mấy giây rồi bước đi, không quên lầu bầu phỏng đoán:

Chắc con sông này qui tụ nhiều bọn côn đồ lắm!..”.

Tôi, thật sự cũng chưa thấy dòng sông Côn dài ngắn ra sao, hay không chừng đã thấy qua rồi mà khi nhìn chưa biết tên. Quê hương mình chẳng rộng là bao mà đi chưa hết, biết chưa tường quả thật đáng xấu hổ. Một ngày nào có dịp về Việt Nam, tôi sẽ đi thăm cho tận quê ông Phiến, quê ông Giác… để có dịp so sánh với đất Ngũ Phụng Tề Phi của tôi một cách công bằng.

Tịch thu, hoả thiêu sách báo, băng nhạc, họa phẩm…văn học nghệ thuật miền Nam vẫn âm thầm tồn tại. Ngoài lớp bạn đọc cũ, những người từ phương Bắc vào cũng háo hức tìm đọc, tìm hiểu. Những người sáng tác ở miền Nam, giai đoạn đầu cuộc đổi đời có khựng lại một thời gian ngắn, để rồi lặng lẽ viết, không kém hăng say như ngày trước. Những thay đổi, những qui định có tính cách ràng buộc, rào cản, vô tình trở thành cơ hội để thay đổi tư duy, đề tài. Cuộc chiến văn hoá, không “bày binh bố trận” nhưng dành từng phân chiến thắng lại ở trong tay những người vừa mất tự do. Điều này có thể nhìn vào lãnh vực âm nhạc mà suy ra. Nhạc tiền chiến, nhạc thời trang, qui chung vào một mối: nhạc vàng. Cấm. Nhạc đỏ hay nhạc phục vụ, ngợi ca chế độ, đương nhiên không phải bài nào cũng dưới trung bình, không thiếu những bài hay, những bài rất xuất sắc, nhưng theo thời gian những ca khúc đó nằm im trong một góc khuất. Không có nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ …nào chống đối việc thống nhất đất nước. Sự chấn chỉnh trong sáng tác đương nhiên cần có dưới một chính thể mới, nhưng sự vụng tay thô bạo đã đẩy những người làm công việc văn hóa nghệ thuật phải xa lánh chế độ. Đối với những người “nội công thâm hậu” như cỡ nhà văn Nguyễn Mộng Giác, thì việc cầm bút trở lại chỉ là vấn đề thời gian. Thời cơ thuận tiện đã đến với ông, ngay trong những ngày tị nạn khốn khổ trên những hòn đảo xứ người. Ông đã xác nhận:

“…Đây là thời kỳ độ viết lách sung mãn nhất trong đời viết của tôi”

Trong khung cảnh bao la màu xanh của biển của rừng, trên đầu mây che, chung quanh thú rừng, chim bướm, sâu bọ cùng thở, Nguyễn Mộng Giác mỗi ngày hoàn tất một truyện ngắn. Cái thời tạm dung ở Nam Dương của ông coi vậy mà hạnh phúc vô cùng. Càng hạnh phúc hơn, những sáng tác viết ban ngày, ban đêm đã có đám bạn đọc chuyền tay nhau san sẻ, thưởng thức. Những tác phẩm tốt số đó không bị tước đoạt, không bị đục bỏ một chữ nào. Chúng phương phi trở thành cuốn thứ nhất của bộ trường thiên Mùa Biển Động, và là từng phần da thịt của tập Ngựa Nản Chân Bon. Sự thành công trong cuộc sống cũng như trong sự nghiệp đến với Nguyễn Mộng Giác khá dễ dàng, nhờ ông có một tấm lòng rộng mở, biết lắng nghe, biết nhìn và đánh giá chính xác những người chung quanh. Trong bài nói chuyện với sinh viên đại học Berkeley, ông đã đưa ra vài ví dụ, có thể như là những bài học quí:

“…Các kinh nghiệm vượt biên tôi cố gắng ghi một cách trung thực, không tô điểm, nếu là người bi quan thì sẽ cho đó là những kinh nghiệm xấu, nhưng nếu là người lạc quan thì cho là chuyện bình thường. Chẳng hạn như khi tàu vượt biên bị chết máy, lênh đênh trên biển, hết nước, thì may mắn có trời mưa. Khi những giọt nước mưa chảy xuống cái tấm bạt trên ghe thì mấy ông già không chút do dự, đẩy bật những đứa trẻ ra để mà giành uống nước đó. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, cảnh giành nhau để sống, con người rất tàn nhẫn. Nhưng cũng chính các cụ già này khi lên đến đảo thì lại hô hào mọi người làm vườn hoa cho các em chơi. Như vậy mình nói các cụ già giành nước với các em uống, và cụ già muốn làm vườn hoa cho các em chơi, cụ nào là thật? Khó trả lời lắm, rất khó trả lời. Một ví dụ nữa tôi lấy trong chuyến vượt biên: do hệ thống hút nước của ghe bị hư, ghe bị vô nước. Muốn cứu ghe thì phải tạt nước ra, nhưng không ai chịu làm cả. Nước đó dơ dáy lắm, gồm cả phân và nước tiểu, nên không ai chịu xuống tát ra cả. Tôi thấy vậy thì xung phong. Tôi nói tao già rồi nhưng mà tao xung phong để bọn trẻ bắt chước, hy vọng là bọn trẻ thấy mình làm thì sẽ thấy lòng ân hận mà xuống giúp mình, nhưng không ai giúp cả. Sau đó tôi nghe bọn trẻ nói chuyện với nhau, “Tội gì mình phải xuống làm. Phải giữ sức khỏe để lỡ ghe chìm còn sức mà bơi.” Đại khái như vậy. Nếu mình bi quan thì cho là những con người rất xấu trong cảnh tồn tại nguy hiểm. Nhưng nếu mình lạc quan, nhìn một cách dung dị hơn, thì mình cho họ đáng thương. Qua những kinh nghiệm đó, tôi nghĩ là tôi có lý. Không có người xấu, chỉ có người đáng thương. Và tôi dùng cái nhìn đó để tạo những nhân vật của bộ SCML và bộ MBĐ. Qua hai bộ trường thiên và tập truyện ngắn Xuôi Dòng, các bạn sẽ thấy tôi nhìn đời không tốt, không xấu, nó tự nhiên như vậy. Con người chỉ có hai loại, con người đáng yêu và con người đáng thương. Tôi không biết các bạn có đồng ý với tôi không…”

Ngựa Nản Chân Bon in đầu tiên vào năm 1984, năm tôi đang ở Sài Gòn.

Năm 1989, tôi gởi bản thảo một tập thơ, viết trong thời gian già ba năm sống tại thành phố Montréal cho nhà thơ Thái Tú Hạp, tìm cách in giúp. In truyện dễ dàng bao nhiêu thì in thơ khó khăn bấy nhiêu. “Con đường vương giả tiến lên đài vinh quang”, hình dung của nhà văn Võ Phiến dành cho thơ, cũng đã đúng như ông nhận xét tiếp… “nhưng đến đây thì tiếng nói thanh tao đành bị tiếng đại bác át hẳn”. Vậy mà tôi vẫn cố chơi cho kỳ được. Tập thơ của tôi có tên Chùn Bước Đời Ngựa Ô. Nhận được bản thảo, Thái Tú Hạp gọi ngay, đề nghị sửa lại tên sách. Lý do: không khác với Ngựa Nản Chân Bon là bao nhiêu. Tôi thuận theo ý kiến của anh Thái Tú Hạp, sửa tên tạp thơ thành Ngơ Ngác Cõi Người.

Ngựa Nản Chân Bon đã tái bản lần thứ 4 vào năm 2003, đây là tập truyện ngắn thứ hai của tác giả. Sách dày 260 trang với 13 truyện và một bài “thay lời tựa” của nhà văn Võ Phiến, dài 14 trang. Không thể phủ nhận mức độ tiêu thụ nói nên một phần giá trị tác phẩm. Tôi không dám đề cập đến văn chương, tác phẩm Nguyễn Mộng Giác. Ông là một nhà văn thành danh đã lâu và có uy tín lớn trong lẫn ngoài lãnh thổ Việt Nam. Mỗi sáng tác của ông là một công trình nghệ thuật văn học nghiêm túc. Chính vì thế, mỗi bạn đọc nên tìm thẳng đến tác phẩm để hiểu theo những cảm nhận, đánh giá riêng của mình. Bài thay lời tựa của nhà văn Võ Phiến, viết rất kỹ và rất khách quan. Nhà văn Võ Phiến không những giới thiệu chu đáo về người bạn văn của mình mà còn trưng ra rất rõ những điểm đặc sắc trong văn phong cũng như con người của một cây bút chân tài của văn chương Việt Nam. Tôi định trích dẫn vài đoạn bài viết này, nhưng lại thôi, vì nét nào Võ Phiến vẽ Nguyễn Mộng Giác cũng đáng mách cùng bạn đọc cả. Không lẽ dám trích hết nguyên bài ?

Ngựa Nản Chân Bon, là một tác phẩm nhà văn Nguyễn Mộng Giác đắc ý. Sáng thứ bảy ngày 28 tháng 2 năm 1987 trên đài VOA cho phổ biến bài điểm sách Ngựa Nản Chân Bon. Bài viết được thực hiện bởi ký giả Bùi Bảo Trúc, dưới bút hiệu Bảo Lâm, được in lại trên tạp chí Văn Học tại Hoa Kỳ số 16, phát hành trong tháng 5-1987.

Bài điểm sách được ông Bùi Bảo Trúc bố cục thành 4 phần, khá dài. Trong hai phần đầu ông khai triển những ý chính:

. Ngựa Nản Chân Bon (NNCB) cần nên đọc nhiều lần, vì “mỗi lần đọc, dường như lại một khiá cạnh mới của những câu truyện đó hiện ra”

. giới thiệu bối cảnh, thời gian và lý do viết của NNCB.

. mục đích viết, được Bùi Bảo Trúc khẳng định: “NNCB đã được viết cho chính tác giả”, không bị những ràng buộc bởi kiểm duyệt, chế độ phải tuân thủ, và cả nhà xuất bản.

. cuốn sách là gạch nối giữa hai thời kỳ cầm bút của Nguyễn Mộng Giác (trước 1975 và sau này tại hải ngoại)

Tôi xin trích dẫn nguyên văn phần kế tiếp:

“ trong số 13 truyện ngắn của tập NNCB thì có 6 truyện lấy khung cảnh Việt Nam. 7 truyện kia có bối cảnh là hòn đảo nhỏ nơi tác giả ỏ tạm sau chuyến đi kéo dài một tuần lễ khởi từ Việt Nam.

Nguyễn Mộng Giác là con người chừng mực trong lời ăn tiếng nói ngoài đời, nhưng trong văn chương, ông là người có đôi mắt ‘tinh tường không để thoát một chi tiết nhỏ nhặt nào’ như nhà văn Võ Phiến đã có lần nhận xét về ông. Trong truyện Tố Chân, truyện tình duy nhất trong cuốn NNCB, Nguyễn Mộng Giác viết về một cuộc tình không kết thúc của một mối tình đầy hệ lụy và nghịch cảnh. Mối tình đi từ hoa bướm của tuổi mới lớn, của đôi guốc cao gót đầu tiên đến một đoạn đời hắt hiu của một thiếu phụ không hạnh phúc trải dài ngang thời gian mười năm trời. Truyện Một Ngày Như Mọi Ngày, có lẽ độc giả thấy được con người thật nhất của Nguyễn Mộng Giác. Ẩn dưới khuôn mặt ít nói, ít nói đôi khi đến nỗi ta tưởng ông là người cả thẹn và bẽn lẽn đó, là một bộc óc hài hước rất khô, hài hước rất Ăng Lê của ông. Một Ngày Như Mọi Ngày vẽ lại cảnh sống của một nhà văn gốc nhà giáo, mà người đọc ngờ đó chính là ông, mặc dù anh đã cẩn thận dùng ngôi thứ ba số ít. Nhân vật này trong những băn khoăn , lo âu của cuộc sống đã xuất hiện với một khuôn mặt rất người, rất nhân bản, rất hài hước và rất triết lý, cho dù đó là lúc phân vân không biết bán món đồ nào trong nhà để lấy tiền, hay làm thế nào kiếm được cái áp-phe, hoặc đứng chen chân mua gạo ở một cửa hàng. Truyện Dốc Nhân Sinh là một truyện chỉ có thể xảy ra ở Việt Nam hay tại một quốc gia vừa tàn một trận nội chiến. Hai người phế binh của hai phe mà cũng là hai người bạn thời thơ ấu gặp nhau tại một quán nước. Một người cụt chân vì đạn AK, một người mù vì đường xá xôi, thiếu phương tiện tải thương cấp cứu. Hai cuộc đời tan nát ngồi nói về những ngày cũ trong một cảnh sống vô cùng bi đát, Một người héo như cành cây bị gãy, một người quắt queo như một trái chanh đã vắt hết nước vừa bị quăng đi. Câu chuyện trao đổi giữa hai người không mang một lời thù oán nào.

Những truyện viết về đời sống trên đảo Kuru nơi ông viết cuốn NNCB đã là những truyện sống nhất. Từ bức thư nét chữ nắn nót của cậu bé gởi về cho mẹ, dặn dò đứa em, đến bản tạ ơn của bốn thanh niên chất phác viết để lại dưới chân Phật đài ở một Niệm Phật đường trên đảo, những lời lẽ chân thật một cách tội nghiệp của những đời sống sắp bơ vơ trên những vùng đất lạ. Nguyễn Mộng Giác khéo léo vẽ lại được bằng những nhận xét tỉ mỉ của ông những mẫu người ông gặp trên đảo. Những nhân vật ấy trong những ngày chờ đợi dài đằng đẵng đã có dịp ngồi xuống, duyệt lại, nhìn lại đoạn đời trước đó của mình. Đó là những con ngựa đã nản chân bon mà chịu làm con ngựa gỗ. Đó là một ông già sống hồn nhiên như một em bé mà lại triết lý đầy người, nhân bản hết sức, một bà cụ chỉ lo con gái ở Việt Nam quên món nợ ở ngoài chợ…”

(BảoLâm,Voice of America)

Bài điểm sách NNCB của ông Bùi Bảo Trúc, quả thật quá đầy đủ. Nhưng tôi vẫn muốn viết vài dòng. Theo tôi, Ông Nguyễn Mộng Giác thành công trong tác phẩm truyện ngắn này qua các điểm sau:

. Thực hiện đúng câu “Phải viết cái gì trung trực” (trong Một Ngày Như Mọi Ngày)

. Sinh động trong những nét phác họa cuộc sống thường nhật chung quanh

. Tinh thần lạc quan và có tài trong việc biến một số câu chữ thành những hình ảnh hóm hỉnh, phát ra được tiếng cười ngay trong những trường hợp bi quan nhất.

. Có một tấm lòng trong sáng, không hận thù và hằn học với quá khứ. Sự vị tha làm cho ngòi bút trở nên thong dong, nhẹ nhàng.

. Những triết lý về sự sống, cuộc đời không quá xa vời. Nhờ đó trở thành những lời nhắn nhủ, gởi gắm chân tình, cũng như chia xẻ những vốn sống đã có của mình cùng mọi người.

. Dòng văn mang nhiều chất thơ,

Một tác phẩm quan trọng khác của nhà văn Nguyễn Mộng Giác là bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa Biển Động. Toàn bộ dày 2000 trang viết đều đặn trong 7 năm, xen kẽ giữa thời gian đi làm thiết kế đồ hình (graphic designer) tại một công ty điện thoại Hoa Kỳ, ngày 8 tiếng. Để có kiên nhẫn và hứng thú cầm bút, nhà văn Nguyễn Mộng Giác cho biết đã vịn vào sự ngây thơ đi kèm với niềm đam mê. Thế nào là ngây thơ ? tác giả giải thích:

“…Nhưng để giải thích vì sao mình kiên nhẫn như vậy thì điều chính là thế này, mình chỉ bỏ công viết được những tác phẩm đòi hỏi sự kiên nhẫn khi nào mình ngây thơ. Cái đam mê đương nhiên là có rồi, nhưng phải ngây thơ nữa. Khi tôi viết bộ này, thì hoàn cảnh sống quá bi đát, cả phương diện vật chất và tinh thần. Tôi nghĩ rằng mình viết như viết di chúc vậy, viết xong chết cũng được. Nhưng may là viết xong… chưa chết. Hồi viết bộ này thì tôi cũng ngây thơ nữa, cứ cho là cái kinh nghiệm mình trải qua ở Việt Nam từ năm 1963 là năm Ngô Đình Diệm sụp đổ, cho đến năm 1981, qua nhiều chế độ, nhiều thăng trầm, nếu mình không viết thì sẽ không ai viết cả, và như vậy thì uổng lắm. Quá ngây thơ! Thật ra, nếu mình không viết thì sẽ có người viết và viết hay hơn mình. Do cái ngây thơ đó nên tôi ráng viết trong vòng bảy năm và hoàn tất bộ này”.

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác cũng cho biết những khuyết điểm của công trình tâm huyết của ông:

“…Khi đọc lại, dĩ nhiên thấy không bằng lòng. Các bạn biết mình như người thợ hàn vậy thôi. Mình lấy miếng này mình hàn miếng kia, độc giả không thấy nhưng mình thấy. Tất cả các phần ghép nối, các phần giả tạo, phần tưởng tượng chưa tới, mình đều thấy cả. Đọc lại tôi thấy không bằng lòng. Nhưng may là, nếu hồi đó không viết thì bây giờ không viết nổi. Có người hỏi tôi, bây giờ anh rảnh, sao không viết cái gì đi. Tôi trả lời một cách triết lý là bây giờ mọi thứ không còn quan trọng nữa, viết làm gì. Mình biết mình không viết được thì cứ nói mình không viết được, đừng nói dối. Quả là khi mình không còn ngây thơ thì mình không thể viết được nữa. Chúc các bạn giữ được ngây thơ, nhờ ngây thơ đó mà các bạn làm được nhiều việc. Sau khi in bộ này, tôi không còn viết được gì nhiều ngoài một số bài luận về văn học như cuốn “Nghĩ Về Văn Học Hải Ngoại”.

Dù tác giả chưa thật sự bằng lòng với công trình của mình, Mùa Biển Động vẫn được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Tác phẩm gây được tiếng vang lớn, tạo ra hai thành phần chê, khen. Bên phía những người chỉ trích, hầu hết là những người chưa kịp điều chỉnh cho phù hợp tình yêu nước của mình trước những diễn biến chung của hai khối Quốc, Cộng. Quá khích, cứng ngắc và đố kỵ đã tạo nên những người phê bình văn học mà không cần đọc tác phẩm. Họ chỉ dựa theo một vài tin thiếu xác thực trên báo, hoặc nghe kể lại bởi những đánh giá hạn hẹp, thiếu trung trực để có cơ hội bôi bẩn, hạ uy tín một người có lòng với văn chương, với quê hương. Dĩ nhiên trong nhóm này không thiếu những người thông minh, đánh hơi được sự nguy hiểm của một ngòi bút đối với chế độ họ đang ngấm ngầm phục vụ, buộc họ cần lấy điểm. Những gì thiếu trung trực thường sớm được lặng lẽ kết thúc. Thành phần tán dương Mùa Biển Động không ít, nhưng rất may không quá ồn ào. Giá trị của tác phẩm cứ theo thời gian mà tăng thêm độ bền vững.

Với 2000 trang, Nhà văn Nguyễn Mộng Giác viết những gì ? trình bày được những gì ? Câu trả lời xin dành cho bạn đọc tùy nghi dành cho chính mình. Nếu vui tay mời gõ thành chữ cho bốn phương cùng đọc. Cá nhân tôi, hiểu mình, biết người, nên xin áp dụng đúng vế sau của câu này: “biết thì thưa thốt…”. Chỉ xin được giới thiệu bộ trường này gồm 5 tập:

1/ Những Đợt Sóng Ngầm, 392 trang, Văn Nghệ xuất bản năm 1984, tái bản 3 lần.

2/ Bão Nổi, 239 trang, Văn Nghệ xuất bản năm 1985, tái bản 6 lần.

3/ Mùa Biển Động, 332 trang, Văn Nghệ xuất bản năm 1986, tái bản 6 lần.

4/ Bèo Giạt, 433 trang, Văn Nghệ xuất bản năm 1988.

5/ Tha Hương, 644 trang , Văn Nghệ xuất bản năm 1989.

Một trong nhiều người, đã vui tay một cách tận tình khi gõ thành chữ những quan niệm và nhận xét của mình về Mùa Biển Động, là một vị thầy giáo trung học có bút danh rất yểu điệu thục nữ: Nguyễn Thị Sông Hương. Nếu tác giả Mùa Biển Động đã dùng 7 năm để hoàn tất bộ trường thiên hai ngàn trang, thì ông Nguyễn Thị Sông Hương, vừa đứng nghiệp chủ quán sách Trung Việt ở thành phố Montréal, Canada, vừa bỏ ra hai năm rưỡi để thực hiện tươm tất cuốn Phê Bình Mùa Biển Động. Một công trình nghiên cứu, nhận xét, đánh giá dày đến 332 trang, chữ nhỏ.

Là một nhà giáo Việt văn kỳ cựu trong nghề, hành nghiệp tại trường trung học Võ Tánh, Nha Trang, ông Nguyễn Thị Sông Hương đã bố cục rất chặt chẽ trong cuốn sách phê bình văn học của mình. Hình như ông là người đầu tiên và chờ trở thành người cuối cùng, rộng tay với chỉ một tác giả như vậy. Nếu nêu lên những ưu khuyết về cuốn sách phê bình của ông Trung Việt (anh em bạn văn chúng tôi ở Montréal thường gọi như thế) một cách cặn kẽ, thì tôi sẽ lạc đề. Nếu tôi dựa vào sách ông để viết ít nhiều về Mùa Biển Động, ví dụ như tóm tắt sơ lược cốt truyện, đưa ra những hoàn cảnh lịch sử dùng làm bối cảnh cho tác phẩm, hoặc giới thiệu quan niệm và chủ đích của tác giả, thì tôi là người thiếu lương thiện. Tôi đã có đọc Mùa Biển Động, nhưng chưa đọc một cách nghiêm chỉnh, nghĩa là đọc rời rạc làm nhiều lần, nhiều cơ hội khác nhau. Làm công việc điểm sách hay nhẹ nhàng hơn là giới thiệu sách, không những phải có kiến thức, khả năng trình bày những nhận xét khách quan của mình một cách rõ ràng, gọn nhẹ. Không thể nhờ bè bạn kể cho nghe về cốt truyện, giới thiệu nên đọc một số đoạn tiêu biểu, rồi bắt tay xuống bút, rồi tha vào bài viết những tư tưởng, những câu viết của những nhà văn thành danh nước ngoài để lòe bịp, gánh đỡ kiến thức của mình.

Giới thiệu Mùa Biển Động trong mớ chữ lạng quạng của tôi, không thể thiếu, nhưng chỉ có thế, dù những nhân vật, những biến động thời sự diễn tiến trong tác phẩm dài hơi của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, rất gần với tôi, ngó lại như thấy rõ một thời. Bởi cá nhân tôi có mặt trong đám nhân vật của ông Giác. Không đốt nhà nhưng cũng từng từ khu Thanh Bồ hơ hải chạy trở ra. Không diễn thuyết, kích động, nhưng từng đứng trên lan can Tòa Thị Chính nhìn ra sông Hàn, nhìn đám đông hoan hô đả đảo dưới lòng đường Bạch Đằng. Không mang Phật ra đường nhưng đã từng cùng bè bạn thu vén giúp một số bàn thờ ấm hương khói trên đường Ông Ích Khiêm, Triệu Nữ Vương, Hoàng Diệu…ngậm ngùi trở vào hiên nhà. Hình như rất nhiều đoạn đời trong Mùa Biển Động đều phảng phất hình ảnh của chính tôi một thời. Tôi không lạ mặt với những tờ Lập Trường, Đứng Đầu Gió…Những tin nóng bỏng có máu, có nước mắt có cả sự giật giây, thổi phồng của những người anh em bên kia sông Bến Hải, của những bè bạn ăn cơm bên này thờ phụng bên nọ. Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác vật vã quá dài, đi từ nền Đệ Nhị Cộng Hòa với đầy đủ những biến cố lớn của lịch sử đến ngày hấp hối của một chế độ, một thời từng trưng dụng một ít máu của chính tôi. Sống lại một thời từ Mùa Biển Động, dĩ nhiên tôi không chỉ tìm ra tôi mà còn thấy rất nhiều bằng hữu. Tôi cũng ít nhiều cảm được chính tác giả sống ké vào những nhân vật nào. Chính tác giả đã sống thật qua những gì ông hàn nối, lắp ghép thành một công trình văn học để đời.

Ngoài Nguyễn Thị Sông Hương, không thiếu những ngòi bút phê bình uy tín phân tích Mùa Biển Động. Những Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc …đều dự phần chia vui cùng tác giả. Điều quan trọng, tuy dựa vào bối cảnh lịch sử, nhưng Mùa Biển Động không thuộc loại tiểu thuyết lịch sử, tác giả khẳng định trong “lời thưa trước với bạn đọc”:

“ Toàn bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa Biển Động không phải là một bộ tiểu thuyết lịch sử. Tác giả không có khả năng, mà cũng không có ý định ghi lại các biến chuyển lịch sử Việt Nam từ 1963 đến nay. Tác giả chỉ mong ước ghi lại những biến chuyển tâm trạng của một thế hệ thanh niên trong giai đoạn đó mà thôi.

Cho nên dù tác phẩm có mô phỏng một số mẫu sống, một số nhân vật, một số sự kiện lịch sử có thật, nhưng Mùa Biển Động chỉ là sản phẩm của tưởng tượng. Những người từng tham dự vào các biến động lịch sử trong giai đoạn này chắc chắn thấy rõ điều đó.

Sỡ dĩ tôi có lời thưa này, là vì cho đến nay, vẫn còn rất nhiều bạn đọc không muốn phân biệt giữa sự thực lịch sử và sự thực tiểu thuyết.

Đâu là sự thực của đời sống ? Đó là điều tác giả quan tâm trước tiên khi dự định viết bộ trường thiên tiểu thuyết này”

(Nguyễn Mộng Giác)

Trước 1975, nhà văn Nguyễn Mộng Giác có bài trên các tạp chí Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức… nhưng ông chưa thật sự tham gia vào việc làm báo. Nhờ cũng có lai rai đôi ba bài thơ ở Bách Khoa, tôi làm quen với cái tên gọi Nguyễn Mộng Giác, bình thường như những bút danh khác Nguyễn Ngu Í, Xuân Hiến, Lê Ngộ Châu, Võ Phiến, Trần Huiền Ân, Vũ Quỳnh Bang, Minh Quân, Lữ Quỳnh, Trụ Vũ…Tôi là một anh “Hai Lúa” của miền Trung, nhưng đi đâu cũng sợ, đến đâu cũng ngại, phản ánh rất đúng câu: “…con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng kinh” nên chuyện vào Sài Gòn trong thời kỳ tập viết của tôi rất xa vời. Chuyện ghé thăm các tòa soạn là một điều không tưởng. Tuy vậy tôi quen biết qua thư từ khá nhiều, nhưng trong đó không có nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Tôi nhớ lại thời thỉnh thoảng có vài ba nhà văn Sài Gòn có dịp tạt ngang Đà Nẵng, đã vui chân ghé thăm tôi tại sở làm, trong đó có nhà văn Ngô Thế Vinh, nhà văn Dzoãn Dân (qua đời ngay sau đó không lâu) nhà thơ Phan Trước Viên (cũng đã qua đời vì bom đạn ít lâu sau)… và một người, không chắc có phải là ông Nguyễn Mộng Giác không ? Nhưng có điều lạ, đã từ lâu tôi hình dung trong đầu, tầm vóc của hai nhà văn Ngô Thế Vinh và Nguyễn Mộng Giác na ná như nhau. Vóc người không lùn, không cao. Tròn tròn, không ốm, không mập. Nước da không quá sáng cũng chẳng quá sậm, đủ độ vàng của một người vừa trí thức vừa chân chất bình dân. Nói không nhiều, cười không lớn tiếng. Nhưng tặng ngay cho người đối diện sự thân mật, tự nhiên. Riêng Nguyễn Mộng Giác, nhà văn Võ Phiến tô đậm thêm:

“…Ở Giác, tôi chắc chắn tất cả bạn bè Giác và những ai quen biết Giác đều nhận thấy cái hiện ra bề ngoài rõ ràng nhất là sự nghiêm chỉnh: nghiêm chỉnh ở nét mặt, cái nhìn, phong thái. Đó là cái tính cách hiển hiện nổi bật từ toàn bộ trước-tác của Nguyễn Mộng Giác…”

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác không họa ra nhân dạng mình, nhưng ông cho biết con người nội tâm của ông:

“…Bản tính tôi nhút nhát, vụng về trước đám đông (điều này có lẽ ông khiêm nhường), không dễ tạo cảm tình nơi người khác lúc sơ giao. Những người có thiện cảm với tôi như nhà văn Võ Phiến thì rộng lượng cho rằng tôi ‘cẩn trọng từ tốn, không dàn trải mình ra bên ngoài, không bộc lộ náo nhiệt, cuộc sống thu lắng cả vào bên trong’. Những người có thành kiến xấu chắc chắn sẽ nghĩ tôi lãnh đạm, khó khăn. Bản tính vui buồn, nhanh chậm thuộc về bẩm sinh, tôi không can thiệp vào được. Tôi chịu nhiều thua thiệt do bản tính đó, nhưng đôi lúc nhờ ít nói cũng tránh được những lầm lẫn ngông cuồng. Càng ít nói càng đỡ lỡ lời…”

(Tha Hương, MBĐ 5)

Năm 1985, tôi qua Montréal vào tháng giêng. Chừng bốn, năm tháng sau, nhà văn Nguyễn Mộng Giác tiếp nối công sức của nhà văn Võ Phiến, chăm sóc tạp chí Văn Học. Tôi có dịp quen với bút danh của tác giả Sông Côn Mùa Lũ nhiều hơn. Nhà văn Nguyễn Mộng Giác chắc cũng biết qua bút hiệu tôi chút chút, vì tôi thỉnh thoảng gởi bài cho tòa soạn chờ được chọn đăng. Thơ thẩn càng ngày càng trở thành chuyện ruồi bu. Buồn chán, vất vả sinh ra thi sĩ. Sung túc, trưởng giả sinh ra thi sĩ. Cứ vậy ngày một nhiều, ngày một đông những người chí tình làm thơ. Họ có cái thơ ngây lớn hơn tác giả Mùa Biển Động rất nhiều. Và vì thế tòa soạn bất cứ loại báo nào cũng thặng dư thi ca. Rất may cái thời “làm thơ gởi chạy nhật trình, đề tặng em để lừa mình đó thôi” (LH) của tôi đã đi qua. Tôi gởi thơ đăng báo để nuôi cầm chừng cái tên mình cũng có. Tôi gởi thơ đăng báo để tạ ơn các vị làm báo, nuôi báo, đã gởi cho mình báo đọc cũng có. Gởi bài nhưng gần như chẳng gởi thư, hoặc họa hoằn ghi vắn tắt bên dưới bài thơ vài dòng, cụ thể: “Anh thấy được thì ‘đi’ không thì vứt.”. Có một lần tôi viết nhiều chữ hơn cho ông chủ bút Văn Học: “ bài thơ có nhắc đến tên nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, anh thấy ngại, thì bỏ”

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác gởi ngay cho cái hồi âm, đại ý: “sao lại ngại” và một vài câu ngắn gọn nữa, chân tình, thâm thúy lắm. Nhưng tôi nhớ không ra. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi có được một vài chữ viết của một người tôi ngưỡng mộ, nhưng nay, mẩu giấy ấy lạc đâu mất. Thật tiếc. Mỗi lần in thơ, hình như tôi có đề tặng người cha đẻ của Tiếng Chim Vườn Cũ một tập, nhưng tôi chưa hân hạnh được ông cho một tác phẩm nào của ông để làm oai, khoe với đám con và cô vợ, cũng thỉnh thoảng đọc sách. Tác phẩm của Nguyễn Mộng Giác nặng ký ở nhiều phương diện, giá trị nghệ thuật, lẫn chi phí in ấn, đâu có thể thành xôi chuối của nhà chùa. Nhắc điều này, tôi tuyệt nhiên bình thản, không có ý nhắc khéo hay trách nhẹ gì, chỉ để chứng minh tôi hiện không có một thủ bút nào của ông, để scan bỏ vào bài viết (như những người khác), cho ấm thêm những dòng ba hoa. Và từ nay cho tới ngày về làm thơ ở ngục A tỳ, tôi chắc chắn sẽ không có được cái đang thiếu, vì nếu có liên lạc cũng chỉ gõ vào email. Tiếc.

Giữa tháng 6 năm 1992, nhà văn Nguyễn Mộng Giác cùng một số bạn văn khắp nơi ghé về thành phố Montréal, tham dự buổi sinh hoạt “Kỷ niệm 35 năm văn học hội họa Võ Đình”, Nhà văn Nguyễn Mộng Giác đến Montréal, dĩ nhiên, tôi có được bắt tay ông, nói với ông vài câu xã giao. Ông vẫn như thời tôi đã tưởng tượng trên. Tế nhị, hòa nhã và đứng đắn với nụ cười chúm chím trên môi. Những năm tháng tiếp theo, giữa chúng tôi vẫn vậy. Tôi vẫn được tặng tạp chí Văn Học dù năm ba số chưa thấy cái tên Luân Hoán xuất hiện một lần. Tình hình tiêu thụ báo chí có phần sút giảm. Lệ phí gởi báo lại tăng, Văn Học lên tiếng than phiền, tôi hơi chột dạ, chẳng giúp được anh em điều gì. Tôi vội ghi mươi chữ, kính gởi đàng hoàng, để xin thôi nhận báo biếu. Dĩ nhiên tôi được chấp thuận dễ dàng. Hết báo đọc, tôi rất ít biết tin sinh hoạt của văn thi sĩ bốn phương. Tin về nhà văn Nguyễn Mộng Giác cũng gần như mù luôn. Rất may, ở gần tôi có nhà văn Song Thao, anh cộng tác với Văn Học nên có báo tặng. Tôi siêng thì mượn đọc chơi. Chuyện lẩm cẩm làm thơ đăng báo của tôi, tuy không tuyên bố nhưng xem như chấm dứt, dù tôi vẫn mần thơ tùy hứng. Nhờ qua anh Song Thao, tôi biết nhà văn Nguyễn Mộng Giác có thêm một số tác phẩm nữa:

Tập tiểu luận Nghĩ Về Văn Học Hải Ngoại, xoay quanh các vấn đề như tên sách, với 19 tiểu mục, trong đó có ba bài Nguyễn Mộng Giác trả lời nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh, nhà văn Trần Doãn Nho và nhà văn Trần Long Hồ. Một bài thảo luận về tiểu thuyết lịch sử với nhà văn Nam Dao. Qua những câu trả lời phỏng vấn của Nguyễn Mộng Giác, tôi hiểu thêm được rất nhiều vấn đề. Nhà văn Trần Long Hồ đã mở ra cơ hội để nhà văn Nguyễn Mộng Giác nói về sự hình thành cùng diễn tiến sinh hoạt của tạp chí Văn Học tại Hoa Kỳ . Nhà văn Trần Doãn Nho nêu lên những câu hỏi có tính cách chuyên môn về vấn đề sáng tác. Nhờ thế, chúng ta có thể biết quan niệm văn chương, những yếu tố căn bản trong tác phẩm của Nguyễn Mộng Giác. Ta cũng biết thêm cách gầy dựng cốt truyện, cách sử dụng nhân vật và những điểm cần thiết, chuẩn bị trước khi bắt tay điều hành những con chữ. Nói chung, kỹ thuật viết văn được Nguyễn Mộng Giác trình bày trong những câu ông trả lời Trần Doãn Nho.

Một tác phẩm khác thuộc loại tạp luận, có tên Bạn Văn, Một Thuở… Mới nhìn cái đề, tôi có thêm một lần giật mình nữa. Tôi tự hỏi, hóa ra mình đang bắt chước? Rất may, nhà văn Nguyễn Mộng Giác không viết tầm phào như tôi. Tuy đề tài của ông cũng liên quan đến bạn bè, nhưng những gì ông viết toàn là chuyện văn chương chữ nghĩa cả. Nó thể hiện đúng tầm vóc và tác phong của ông. Muốn biết ông đọc tác phẩm của Miêng ra sao, ông giới thiệu Chân Mang Giày Số 6 của Song Thao thế nào, hoặc cùng ông “Đi Vào Cõi Thơ Khoa Hữu” v..v.. đều đọc thấy trong tác phẩm dày 260 trang này. Giá cũng chỉ 13 Mỹ kim. Người có khả năng viết cái gì cũng đạt. Câu này đem nghiệm với Nguyễn Mộng Giác rất chính xác.

Mùa hè năm 2006 tôi và gia đình bất ngờ đến thăm quận Cam California, nhưng không tình cờ khi ghé thăm nhà văn Võ Phiến và nhà văn Nguyễn Mộng Giác. Hai ông văn sĩ này là những ngọn đỉnh thu hút những người cầm bút dù mới, dù cũ, nếu có cơ hội, đều muốn gặp qua cho biết. Vợ chồng Thái Tú Hạp và vợ chồng Thành Tôn là những kẻ đưa đường, giới thiệu. Trên đường đi, tôi được các bạn cho biết sự vui tính của chi Nguyễn Khoa Diệu Chị. Quả nhiên khi xe vừa ngừng ngoài lộ, chúng tôi đã bắt gặp được những tiếng cười nhẹ nhàng bên cạnh những tiếng reo vui của cậu cháu ngoại măng sữa của anh chị Giác.

Tổ ấm mới của gia đình nhà văn Nguyễn Mộng Giác, khang trang rộng rãi, nằm trong thành phố Westminster, quận Cam, không xa trung tâm Little Sài Gòn là bao nhiêu, chỉ năm phút, ba phút hay sáu phút… tùy hứng của mỗi người lái xe, là có thể có mặt tại nơi đô hội này. Căn nhà của nhà văn Nguyễn Mộng Giác không to lớn như một villa sang trọng, nhưng là một nóc gia có phong cách rất Việt Nam. Từ đường lộ, lối vào lát đá có đủ chiều dài, để vừa thư thả bước đi, vừa ngắm tổng quát khu nhà đầy đủ sân, hiên, vườn cây, giàn nuôi hoa lá. Phòng khách rộng, thật lý tưởng cho những cuộc hội ngộ năm, mười bằng hữu, lai rai tán dóc chuyện đời, chuyện sách vở. Cuối phòng khách, cánh cửa sổ đủ sức mời những đôi mắt vô tình, lơ đãng nhất phải nhìn, phải ngắm vườn cây xanh bên ngoài. Cạnh cửa sổ là những tủ sách đứng chạm vai nhau trong dáng vẻ trầm lặng quan sát. Nhìn tủ sách, bạn đến chơi cảm thấy được sự mời gọi thật ấm áp. Những tác phẩm đủ loại đứng chen nhau như chờ đợi, như thăm hỏi. Cùng với sách những khung ảnh đủ cỡ, lồng chân dung nhiều khuôn mặt sáng mát, thân tình. Bàn viết, ghế ngồi không xa những tủ sách bao nhiêu. Người viết văn hẳn nhiên phải có một chỗ ngồi đàng hoàng, không thể tùy tiện như mấy chàng làm thơ. Nhưng trong phòng khách của nhà văn Nguyễn Mộng Giác không phải chỉ có vậy. Nhiều loại máy móc cần dùng, nhiều món đồ chơi của trẻ con được bày đặt rải rác và nhất là tràn đầy những tiếng cười lạc quan của một người đàn bà, biết thế nào là yêu chồng, yêu cuộc sống.

Tuy không thân tình, nhưng anh chị Giác (tôi xin thay đổi cách xưng hô ở đoạn này cho đúng với thực tế) đã dành cho tôi chừng nửa tiếng đồng hồ, nói chuyện khá vui vẻ. Đây là bản tính hiếu khách của anh chị. Tôi rút được một bài học trong chuyến thăm viếng đáng nhớ này là sự lạc quan. Bài học giản dị nhưng tôi chưa chắc thực hiện nổi, nếu cũng gặp khá nhiều trục trặc trong sức khoẻ như anh Nguyễn Mộng Giác. Sự lạc quan của anh đang chiến thắng những con vi trùng ung thư. Và chị Diệu Chi chứng minh được câu nói rất nhà binh “tiếng cười át tiếng bom”. Câu chuyện trong tương kính xã giao dần dần cởi mở hơn, nhất là sau lúc anh Giác gọi phone rủ nhà thơ Lữ Quỳnh đến chơi, Lữ Quỳnh thành danh từ đầu thập niên 60. Tôi biết danh anh từ lâu nhưng cũng chưa được gặp bao giờ.

Cách đây chừng một tuần, nhà văn Song Thao cho tôi biết sức khoẻ của nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã vô cùng khả quan. Căn bệnh họ Ung của ông đã thật sự bị thất thế, trước sự bình tĩnh của ông cộng thêm sự vui vẻ lạc quan của chị Nguyễn Khoa Diệu Chi. Người đời thường nói: Sống chết là chuyện thường tình. Tôi thấy khó bình thường được. Nếu chẳng may ông Nguyễn Mộng Giác không có được chị Diệu Chi, tôi không có được Trần Thị Lý, Song Thao không có được chị Diệu Hương, Phan Ni Tấn không có Châu Khả Khiếm… thì chắc rất là phiền. Nhà thơ Du Tử Lê đã kết hợp với nhạc sĩ Từ Công Phụng để tạ ơn em một đời. Nhà văn Thế Uyên và tôi cũng từng được đồn là ca ngợi vợ. Nhà văn Song Thao, trong trang đầu của cuốn truyện thứ sáu của anh, cuốn “Bên Lưng Những Con Chữ”, cũng đã bỏ nhỏ: “Cho em, ghi nhớ 30 năm bên nhau”. Còn ông Nguyễn Mộng Giác đương nhiên đã viết một trang “ghi ơn nhà tôi” ở cuối bộ truyện Sông Côn Mùa Lũ. “ Sông Côn Mùa Lũ in được trọn vẹn và tới tay quí bạn đọc, phần lớn cũng nhờ công lao của nhà tôi, từ lúc phác thảo cho tới khi thành sách. Xin phép được chia sẻ những lời riêng tư này với quí bạn đọc, dù biết đối với nhà tôi, những dòng chữ này không cần thiết lắm.” Chúng tôi là những người hít thở cùng chữ nghĩa, không có mấy bà hà hơi tiếp sức, cùng chia bớt khí lực thì ắt sẽ khó vượt đường dài.

Vui mừng trước tin Song Thao báo, tôi quên chuyện thân sơ, email thăm hỏi nhà văn Nguyễn Mộng Giác tức thì. Không phải nói thành lời, không phải đối diện, với đầu ngọn bút chì, tôi gõ thành chữ, đâu có chi ngại ngùng, nên luôn tiện tôi xin phép dựa hơi (mỗi lần muốn dựa hơi ai đều phải nhiêu khê như vậy, chứ không hề tùy nghi) . Dĩ nhiên với lịch sự, nhà văn phải cho phép. Tôi đã khéo léo đặt ông vào chỗ đã rồi. Thật ra tôi đã nông nổi bày một trò hơi liều, để rồi viết một cách hời hợt, nhạt nhẽo. Dù sao tôi cũng hy vọng, đây là cơ hội duy nhất để tôi mang tặng ông bà Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Khoa Diệu Chi, mỗi người một món quà rất chân tình.

Xin tặng nhà văn cơ hội làm lại nhà giáo ngày nào, để thoải mái ghi lại những chữ đã từng phê trên bài học sinh một thời: Rườm rà, Lạc đề, Luộm thuộm và Vụng về vv…

Xin tặng cô cựu nữ sinh Đồng Khánh Diệu Chi cái cơ hội để cười quên dứt. Và tiếp tục làm thêm chục câu thơ xuất thần, thâm thúy, như thơ chị đã sáng tác tốc hành, dành cho một nữ sĩ nào đó, tôi được nghe hôm nào. Đọc bài viết này của tôi chị sẽ làm thơ dễ dàng thôi, nhớ gởi cho tôi xin vài câu, vài đoạn, để cùng cười cho vui.

Luân Hoán
(Dựa Hơi Bè Bạn 2)

Leave a comment