Sự “tùy tiện” phá phách, đầy thách đố trong cách ứng xử với đề tài lịch sử ở các sáng tác của Trần Vũ
Nhiều truyện ngắn của Trần Vũ được dựng trên các sự kiện, và tên tuổi của nhiều nhân vật lịch sử. Nhưng chưa khi nào nhà văn phải nỗ lực dựng hình ảnh của các sự thật lịch sử và các nhân vật lịch sử như một kiểu chân dung truyền thần theo đúng những gì mà sử quan đã vẽ trong các bộ sử của nước Việt. Bởi “tôi không viết truyện lịch sử”(1). Chính vì thế các “bản gốc” được lưu trong chính sử, với Trần Vũ, không có tư cách như một khuôn mẫu, một ràng buộc. Trái lại, nhà văn không ngần ngại tháo tung cương cho trí tưởng tượng, cho phép nó được quyền hư cấu thẳng tay. Hơn thế, Trần Vũ còn tự trao cho mình quyền được tự do lựa chọn góc độ tiếp cận lịch sử theo quan niệm cá nhân. Những gì được thể hiện trong tác phẩm của Trần Vũ là sự hiện thực hóa cho chính quan điểm nhà văn chủ trương – “lịch sử trong tiểu thuyết, một tùy tiện ý thức” (tên một tiểu luận của tác giả). Chỉ có điều ở tác phẩm của nhà văn, sự tùy tiện trong cách ứng xử với đề tài này là một tùy tiện táo bạo, “xấc xược” đến mức phá phách. Thậm chí, nó trở thành một khiêu khích, một thách đố với truyền thống “nệ sử”, “nệ thực” của văn học Việt Nam.
Trần Vũ
1. Từ quan niệm viết “phản truyền thống”
Trần Vũ quan niệm cách viết về những nhân vật lịch sử: “Trong hình học không gian, đường cong khi cắt ra làm trăm triệu đoạn nhỏ, mỗi đoạn sẽ là một đường thẳng, và trên đường thẳng đó các giá trị không ứng nghiệm trên các mặt phẳng khác, sẽ có nghiệm số ở mặt phẳng tí teo này. Định lý toán học trên cũng có thể hỗ trợ cho các nhà văn đem nhân vật lịch sử ra cắt làm trăm triệu khúc và khảo sát phần nhỏ nhất”(2). Dấn thêm một bước, Trần Vũ khi “khảo sát phần nhỏ nhất” ấy, đã cho mình quyền “hư cấu tùy tiện” và (cả quyền) “phóng đại” tới mức “tiểu thuyết”(3). Đáng nói, phần nhỏ nhất ở mỗi nhân vật lịch sử mà Trần Vũ tiếp cận, khảo sát và “phóng đại” sẽ là phần u tối, ác độc, thậm chí “thú tính” trong con người họ.
2. Đến các nhân vật biến dạng như một “quái trạng”
a) Nguyễn Huệ – kết quả cuộc “hợp hôn” giữa một anh hùng và một tên thổ phỉ (*)
Trong Mùa mưa gai sắc, người ta không thấy quanh Nguyễn Huệ, những hào quang thường toát lên từ các vĩ nhân hoặc chí ít chút ánh sáng rực rỡ, chói chang của một ngày nắng đẹp. Ngược lại, nơi ấy lúc nào cũng là một bầu trời đầy mây xám. Lần đầu tiên Huệ xuất hiện trong truyện là lần Huệ tới đầm Thị Nại. Chuyến đi ấy của Huệ vào một ngày xấu trời: “hôm ấy ám trời, cả đầm gợn sắc mây, mưa lướt thướt mỏng như những cánh chuồn rù rì vẩn vơ trên mặt nước”. Cảnh vật xung quanh cũng không hề khá hơn, không gì có thể nhấc mình khỏi không gian rêu mốc, tù đọng: “những cánh bèo nổi lặng lờ như không muốn trôi (…). Những đám lau lác đác, già nua, xanh điệp (…) Đầm Thị Nại không biết tự thuở nào mang tâm trạng u uất ui ui trên mặt nước, ngay dưới mưa cũng phẳng lì không gợn sóng (…) Nước ở đầm này bao nhiêu đời không thay, vừa đục, vừa tanh”. Lần tiếp sau là lần ra Phú Xuân của Huệ. Phú Xuân đón Huệ vẫn bằng những lộng lẫy kinh thành, thứ lộng lẫy chỉ có thể “tìm thấy trên yếm gấm viền thêu mà những người con gái ấp Tây Sơn, huyện Phù Lý không có để mặc trên mình”. Nhưng sắc đẹp kinh thành xa lạ, đài các ấy dù có phủ lên mình gấm thêu lộng lẫy, hay “những váng mưa ngà ngọc, buông như buông trướng, kiêu sa đổ đều lên mái tường thành cung điện của Nguyễn Vương”, thậm chí có phơi ra “vẻ lẳng lơ lộ liễu, da thịt mời gọi”, cũng không giấu nổi cái “ủ ê, bệ rạc” của một nhan sắc “cực kỳ sắc sảo, nhưng đã chung chạ quá nhiều”. Như thế Phú Xuân đô hội là nơi cho Huệ lần đầu được tận mắt nhìn thấy những “ngọc ngà kinh kì”. Tiếc rằng những ngọc ngà đó thực chất chỉ là thứ ngọc ngà đã được dồi phấn tô son trên da thịt già nua của một người đàn bà đã phung phí hết son sắc. Gột sạch tất cả son phấn, không còn gì có thể che đậy những mòn mỏi, bệ rạc và khô đét sức sống của đất kinh kì. Chính vì thế, Phú Xuân chẳng hơn Thị Nại. Vẫn thứ không khí ám khói, tù đọng, rêu phong.
Những u ám của hai buổi đi chơi “xa Tây Sơn” duy nhất “suốt quãng đời thiếu niên” của Huệ đã ám vào cả cuộc đời nhân vật này. Không khí quanh Huệ càng về sau càng lợm mùi máu của bạo lực và sát sinh. Nên, với kinh thành Thăng Long, ngày Huệ kéo quân ra cũng có nghĩa là ngày tận thế, “Tháng sáu năm Bính ngọ 1786, Thăng Long như bầy heo nái nằm đợi người tới giết”. Trong khi đáng ra nó phải là ngày cả kinh thành thấy như vừa hồi sinh, và triều Lê sẽ thấy như vừa trút được cái ách chúa Trịnh. Nhưng “tâm trạng của vua Lê Hiển Tông trong cung Vạn Thọ là tâm trạng của con heo nái xề (…) bất an, hoang mang, cực kỳ lo lắng”. Ngọc Hân, người sau này mãi mãi sẽ gắn chặt với tên của Huệ, cũng đang bồn chồn đợi Huệ, nhưng không phải chờ đợi trong hạnh phúc được sánh vai cùng bậc anh hùng, không phải chờ đợi để trao cho Huệ tấm thân trinh trắng của sắc đẹp “mang tất cả nhan sắc của Bắc Hà” mà đợi Huệ để thấy tận mắt kẻ, mình quyết phải giết, để thực hiện khát vọng diệt Tây Sơn, phục Lê.
Bước đi trong bầu không khí cực thực đến tàn nhẫn, Nguyễn Huệ của Mùa mưa gai sắc hiện lên trong chân dung uy dũng, hung hãn, tàn bạo của một mãnh chúa. Huệ của Trần Vũ là kết quả “cộng sinh” giữa một Thành Cát Tư Hãn hào hùng, bạo liệt “vó ngựa trường trinh, bách chiến bách thắng”(6) với một tên thổ phỉ hung bạo, man rợ. Những bạo liệt, man rợ, đó hiện lên ngay ở vẻ ngoài của Huệ từ thân hình: “vai to bè hơn vai tê giác, mặt vuông ván gỗ”, đến giọng nói “ồ ề vỡ ra như tiếng thác đổ giữa khuya”, và thói quen cùng cách hành xử võ biền, “trong phủ Chúa, chốn sang trọng lộng lẫy nhất Thăng Long từng mảng da beo lớn trải làm thảm lót chân. Huệ đi lại trên đó và khạc nhổ cũng trên đó (…) Huệ dùng đoản đao bổ đôi quả cau, quẹt vôi rồi ăn sống”, “Huệ (…) ngồi uống với bọn Chỉnh, Nhậm. Uống theo kiểu Tây Sơn, từng cối, từng thau, khi uống vục mặt vào chậu cho ướt hết tóc tai”.
Đặc biệt, chúng “kết tinh” nơi con mắt của người “anh hùng áo vải”. Không cần phải trong cơn nguy biến, chỉ ngày thường, cũng có thể đọc được từ đôi mắt Huệ sự kiên định sắt đá của một tinh thần mạnh mẽ và thẳng băng như thép: “Tôi ngắm những bắp cơ trên cánh tay của Huệ thong thả nhịp nhàng dầm mái, rồi vạc nước về phía sau, nhấc lên rồi lại hạ xuống, cử động thuần nhất đến độ trông như Huệ không hề chú tâm đến việc bơi xuồng. Nhưng có nhìn vào đôi mắt Huệ thì mới biết Huệ tập trung lắm. Hướng xuồng đi không chệch, không lệch về trái, không thả sang phải, thẳng tắp theo một hướng đi mà Huệ tự chọn lấy”. Những lúc bất thường, nó là nơi chứa tất cả những dữ dội trong con người Huệ. Khi giận, bao tức tối đều dồn cả lên mắt Huệ, “hai tròng đỏ trong mắt Huệ lập lòe lửa, tất cả thần khí dữ dội hiện lên trong đồng tử”, như thể bao nhiêu lửa giận ngùn ngụt tận gan ruột bốc lên đôi mắt ấy và có thể táp thẳng vào mặt kẻ đối diện, sẵn sàng thiêu kẻ đó thành tro bằng tất cả sức thiêu nóng dữ dội của nó. Nên, Nhạc bị Huệ bỉ vào mộng đế vương của mình, “sống chỉ ao ước như Nguyễn Vương là một kiếp sống ngu xuẩn”, cũng không dám nổi giận vì bị xúc phạm, khi chạm phải “ngọn lửa nóng bỏng ở đôi mắt Huệ”. Cũng từ đôi mắt chứa lửa đó, còn bùng lên thứ sát khí của pháp trường và đoạn đầu đài, nó có đủ sức giết người đến mức, Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ thoáng thấy trong mắt Lê Ngọc Hân một phiên bản khác đôi mắt hiếu sát của Huệ đã sững sờ, chùn tay không dám tiến tới, đụng chạm hơn nữa đến tấm thân ngọc ngà mà chưa bao giờ hắn thôi thèm khát.
Huệ của Mùa mưa gai sắc, tham vọng và cô độc – hai nét tính cách chung cho tất cả các vĩ nhân. Chúng như điều kiện để thành công, cũng lại là cái giá của thành công. Nhưng ở Huệ, cả hai (tham vọng và cô độc) cực đoan đến tuyệt đối. Ngay từ rất sớm Huệ hiểu, thực hiện giấc mộng đế vương là cách để “khỏi sống kiếp người ngu xuẩn” và cũng rất sớm Huệ đã kiên quyết kẻ “dẹp Nguyễn, diệt Trịnh xưng Đế phải là mình”. Giấc mộng Huệ mang là một giấc mộng lớn, giấc mộng mà chỉ có những bậc hào kiệt mới dám nuôi dưỡng và trọn đời theo đuổi. Các vương triều gần như đều khởi nghiệp từ những giấc mộng lớn như thế. Huệ ôm giấc mộng đó vào đời, chưa bao giờ có ý niệm sẽ chùn tay trước những ngáng trở, cũng chưa bao giờ ngần ngại gạt phăng những rào cản, chưa bao giờ sợ hãi vì bàn tay mình đã vấy quá nhiều máu. Tất cả với Huệ không khi nào thực sự là ghê gớm bởi “Huệ chỉ nghĩ tới việc giết người để lấy phần của người chết”.
Lá phướn dài luôn được cất giữ trong rương lớn Huệ ngồi là chứng tích của cuộc đời kẻ lấy chém giết là mục đích, là vũ khí – “lá phướn dài dằng dặc chép đen nghịt tên tuổi những người Huệ đã đích thân sai chém. Có đến cả trăm, nghìn tên, đó là chưa kể những người do quan lính Tây Sơn tự ý giết”. Nhưng lúc “lập” “lá phướn”, Huệ hơn ai hết biết “sổ tử” này sẽ vẫn tiếp tục được kéo dài, khi ngọn lửa “tham vọng đã vượt xa ngày đầu tiên lên Phú Xuân”. Bắc Hà, Nam Hà không còn là cái đích duy nhất, “bây giờ ngọn lửa trong đôi mắt Huệ cháy lan đến những vùng khác”. Giờ với Huệ, “nơi nào có đất, có người coi như của Huệ”. Có nghĩa, tên người sẽ tiếp tục chen chân đen đặc nơi tờ phướn của Huệ. Hiểu mình hơn bất cứ ai, “Huệ đã nối sẵn, dài gấp năm sáu lần lá phướn đã chép”. Tận cùng tờ phướn là nơi tham vọng của Huệ đang mài sẵn dao để chuẩn bị gạt bỏ nốt những ngáng trở cuối cùng trên con đường thực hiện mộng vương đế – “và cái tên cuối cùng được ghi sẵn là hai chữ rắn rỏi: Nguyễn Nhạc” – thực hiện nốt nhiệm vụ lấy dao đâm thẳng vào tim người ruột thịt của mình, tham vọng của Huệ chứng tỏ không gì là nó không dám làm, miễn đạt được mục đích “giết người để lấy phần của người chết”. “Ở khía cạnh đó thì Huệ mãi mãi là Huệ”.
Gần như cô đơn tuyệt đối trong cả cuộc đời mình, Huệ chỉ có một cách duy nhất để chống trả với nó, bạo dâm. Nên, đêm động phòng của Huệ – Hân vừa như một cuộc cưỡng hiếp man rợ vừa như một trận hành xác tàn bạo, “Huệ chụp lấy ngực áo cưới của Hân xé toạc (…) Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân ra giường, tháo dây đai quất xối xả lên tấm lưng mảnh dẻ (…) Huệ quất như thúc roi, thúc ngựa (…) Đến lúc Huệ bắt Ngọc Hân co hai đầu gối, thì nàng quá đau đớn không dằn được, bật tiếng kêu nấc trong đêm tối. Huệ nghe tiếng nấc, khoái cảm càng tăng lên như những lúc chứng kiến hành quyết”. Từ đó, “Huệ bị ràng buộc vào người đàn bà mà mãi mãi từ đây, hằng đêm Huệ phải tìm đến”, không phải vì tình yêu, mà vì nhu cầu được hành xác kẻ khác của “kẻ suốt đời hành nghề tra tấn, không được đánh người thì không biết phải làm gì”. Chỉ với nó Huệ mới tìm được một góc để trốn tránh nỗi cô đơn ngút ngàn trong mình.
Trong các nhân vật lịch sử có mặt trong sáng tác của Trần Vũ, Nguyễn Huệ gây được những quan tâm đặc biệt. Phần nhiều là bởi chất “kì hình dị tướng” quá đỗi đến “không thể chấp nhận được”. Tuy vậy, trong văn học Việt Nam, Trần Vũ không phải người lần đầu tiên “liều lĩnh hư cấu quá tay” trên tên tuổi của nhân vật này. Sau 1975 trong một số tác phẩm lấy Nguyễn Huệ làm nhân vật: Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, Mùa mưa gai sắc của Trần Vũ, Gió lửa của Nam Dao, thì ngoài Quang Trung hoàng đế “hiền hòa”, “trong sáng”, “vô cùng lành với chư tướng, do dự và nhút nhát trước phái yếu”, “có mỗi bàn tay nhỏ nhắn xinh xắn của An mà cũng không dám nắm”(7) của Sông Côn mùa lũ, cả ba Nguyễn Huệ của các tác phẩm còn lại đều hoặc là hình mẫu phản-Nguyễn Huệ (trong Phẩm tiết và Mùa mưa gai sắc), hoặc là tổng hợp của cả hai chân dung Nguyễn Huệ lịch sử và phản-Nguyễn Huệ (trong Gió lửa) (xem Nhân vật Nguyễn Huệ trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, nguồn: www.damau.org).
Nhưng ngay giữa ba chân dung Nguyễn Huệ ấy, Nguyễn Huệ của Trần Vũ cũng tự tách mình ra ngoài như một khác biệt. Bởi chỉ Trần Vũ mới liều lĩnh đẩy những nét dữ dằn, hung bạo trong nhân vật của mình đến cực đại, cũng chỉ Trần Vũ mới liều lĩnh phóng đại những dữ dội, bạo liệt đến mức cuồng điên, “thú tính”. Chân dung Nguyễn Huệ của Mùa mưa gai sắc, vì thế đã chẳng còn mấy liên quan đến hình ảnh truyền thống của môn lịch sử học đường, có chăng chỉ ở tên người và những chiến công. Nó cũng hoàn toàn xa lạ với chân dung “có sẵn” của nhân vật này trong tâm thức của cộng đồng. Do đó, sự hiện diện của Nguyễn Huệ trong Mùa mưa gai sắc thực sự là một khiêu khích, thách đố đến mức phá phách, và liều lĩnh.
b) Lê Ngọc Hân – phiên bản nữ của Huệ
Trong Mùa mưa gai sắc, Lê Ngọc Hân là một hình ảnh độc đáo khác. Một chân dung cũng được dựng bằng những phóng đại cực đoan, tàn nhẫn. Ngọc Hân trước hết là một nhan sắc. Thứ nữa, cũng như Huệ, Hân là kẻ hiếu sát. Chứng cuồng sát ở Hân không kém Huệ về sự tàn bạo và dữ dội. Nguyễn Hữu Chỉnh là người “may mắn” được chiêm ngưỡng và “chịu trận” trước những tia lửa sát nhân từ đôi mắt của nhan sắc lộng lẫy nhất Bắc Hà. “Tia mắt Hân dữ dội đến độ, đương suồng sã, Chỉnh lặng đi, choáng người, phải rút vội tay. Ngọn lửa đằng đằng sát khí trong mắt Ngọc Hân, Chỉnh đã trông thấy nhiều lần trong đôi mắt Huệ. Đôi mắt của kẻ hiếu sát, đã quả quyết làm gì là làm cho đến cùng. Châu thân Chỉnh lạnh toát, mồ hôi bất ngờ vả ra ở sống lưng. Ánh nhìn đương cháy lập lòe của Ngọc Hân rõ ràng là ánh mắt của Huệ, cái nhìn của Huệ trước cảnh hành quyết”. Dù Hân “không được” như Huệ, có thể tận tay tàn sát, giết chóc để trả thù, để thỏa căm hờn những kẻ làm nhục nhà Lê, làm nhục đức vua, và xúc phạm đến bản thân mình. Nhưng Hân có cách riêng để ít nhiều làm vợi ngọn lửa căm thù đang thiêu đốt tâm can mình, cách chiêm ngưỡng, “phẫu thuật” các xác chết bằng mắt. Bởi vậy khi không còn cơ hội tự tay giết chết Trịnh Khải, và cũng không có cách gì ngay lập tức đâm thẳng dao vào tim Nguyễn Hữu Chỉnh, Hân đã “mượn” đến xác Trịnh Khải đang bêu ở cửa Tuyên Vũ. “Tất cả những uất ức của Ngọc Hân như được trút ra khi trông thấy thủ cấp nhà Chúa. Đầu mắc một nơi, xác phanh một góc (…) Ngọc Hân nhìn ngắm chăm chăm từng nét mặt của Trịnh Khải, từ cặp mắt trợn ngược, nốt ruồi dư mà lúc sinh tiền Khải thường hay vân vê, đến lỗ dao sâu hoắm ở cổ họng và những sợi gân còn vướng mắc đong đưa lòng thòng bên dưới”. Xác của “nhà Chúa” mang cho Hân thứ khoái cảm cực độ, “Ngọc Hân cảm thấy hả dạ, cúi xuống lần lần khăn san cầm ở tay ra vẻ xúc động, nhưng kỳ thực là để che dấu nụ cười nụ cười thỏa mãn, cực sung sướng”. Đó cũng là “lần đầu tiên nàng khám phá ra hiệu quả của những xác chết có thể giải bày mọi uất ức trong người mình”. Sau “lần đầu tiên” đó, hơn một lần Hân bắt gặp mình mơ thấy thủ cấp của Huệ, của Chỉnh bêu ở Tuyên Vũ. Bởi Hân thấu hơn ai “thói đời phong kiến, nợ máu phải trả bằng máu (…) máu của họ Lê phải trả bằng máu của Tây Sơn”.
Để thực hiện tham vọng “lấy máu Tây Sơn”, Hân dựa vào hai thứ vũ khí mình có. Thứ nhất, nhan sắc, Hân biết nó là vũ khí sắc bén nhất của người đàn bà. Với vũ khí ấy Hân tô chuốt nó đến bén ngọt, sắc cạnh đủ khiến kẻ nào lỡ tay “chạm hờ” đến cũng phải “đổ máu”. Nhìn Hân “dồi phấn lên mặt, chăm chỉ chuốt lông mày (…) tỉ mỉ kẻ viền mắt, đánh thật sắc khóe mắt vốn đã sắc lịm bén như nước lam nhìn ai thường hớp hồn kẻ đó”, người ta ngỡ Hân chuẩn bị đi giết người. Bởi nó “không phải hình ảnh điểm trang thông thường, mà là cái cảnh của một người con gái sắp thành đàn bà ngồi đánh mắt như đang mài dao, mải miết cho đến lúc bản thép nhọn, bén ngời”. Vũ khí thứ hai là những ràng buộc Huệ không thể dứt bỏ trong quan hệ chăn gối với Hân, thứ quan hệ chăn gối mà hành xác kẻ khác là phương thức và cũng là mục đích. Có lẽ trong thiên hạ chỉ có Hân đủ sức chịu đựng thứ tình dục điên cuồng, hung bạo ấy. Hân chịu đựng trong kiêu hãnh và đắc thắng, vì Hân biết kẻ này càng ràng buộc với mình, cơ hội để diệt Tây Sơn, báo thù cho nhà Lê càng lớn. Nhưng chịu đựng gánh nặng tinh thần quá lớn, Hân “sống như người mang bệnh trí”. Những cơn hoang tưởng cắn xé từng phút sống của nàng: Khi đang tâm sự cùng người hầu cận, đột nhiên Hân thay đổi ánh nhìn “như thể đang nói chuyện với Huệ”, rỗi bỗng “giọng trong trẻo tỉnh táo quá độ và ánh mắt khô ráo”, ngay sau đó “Hân lồng lên. Nhưng rồi lại đổ rũ người ra khóc nức nở”.
c) Kẻ “vô đạo” Trần Thủ Độ
Trần Thủ Độ là một nhân vật tiếp theo được Trần Vũ cho vào “phòng thí nghiệm” của mình và tiếp tục “khảo sát từng phần nhỏ nhất” trong con người này. Thủ Độ của Gia phả “chưa phải” là chân dung anh hùng uy dũng, bạo liệt kiểu Thành Cát Tư Hãn như Huệ. Nhưng về trí lực và sự hung bạo, Độ chẳng kém ai. Độ là kẻ “vô thần”, “vô đạo”. Chẳng có thứ chữ nghĩa, đạo đức nào có thể khuất phục, lôi kéo nổi Độ. Với Độ, “chữ Thánh Hiền lúc đó chỉ còn là một mớ hình dáng tạp nham làm bẩn óc Độ”. Độ chỉ hành xử theo cách của mình – lối hành xử chỉ nghe theo dục vọng bản thân. Bởi thế, Độ sẵn sàng làm bất kể điều gì thỏa mãn ham muốn, không sợ trái đạo, không sợ trừng phạt “Độ sớm phát triển cơ thể. Bắp tay nở nang, bả vai đồ sộ (…) Sức phát triển của cơ thể chỉ đưa đến gia tăng tính dục. Độ mạnh về đường sinh lí, những chiều đi tập võ về, Độ thường cởi trần trùng trục, đứng trần truồng khoe thân trước đám thôn nữ. Ai không muốn xem, Độ cho tiền bắt xem. Ai bỏ chạy, Độ dượt theo đánh”. Đồng thời, Độ chỉ tin vào cơ trí và sức mạnh của mình, Độ tin vào chân lý của riêng mình “ở đời không mưu, không đạt việc lớn”.
Ở Độ toát lên một thứ lửa dữ dằn, bạo liệt. Nó đủ sức làm ấm lại giọt nắng hấp hối cuối triều Lê, nhưng không bằng hơi ấm của sự sống mà bằng sức nóng hung hãn, thô bạo như thể được đúc từ hàng trăm nghìn ngọn lửa mặt trời dữ dội. Nó uy hiếp và khuất phục không trừ một kẻ nào của tộc Trần. Từ Trần Lý, kẻ biết mình “bản chất yếu đuối, trí não không hơn một kẻ đánh cá, (…) không sao trấn áp, tranh được với trí xảo của Độ” đến vong linh những kẻ đứng đầu của cả gia tộc nhà Trần cũng khiếp hãi trước con người ấy “cả một gian nhà thờ vụt kinh hãi cung kính phủ phục đợi Độ. Đôi mắt Trần Kính sợ sệt trốn tránh. Cặp mắt Trần Hấp nhợt nhạt nhìn lảng vu vơ. Cả một dãy chân dung cúi gầm mặt không dám ngẩng lên. Anh ruột Trần Thị là Trần Tự Khánh trông thấy Độ cũng vội vã bỏ trốn”. Sợ hãi không phải chỉ bởi “tất cả kẻ sống và kẻ chết trong gia tộc Trần đều biết” “Độ không chỉ mưu mà còn có cả sức lực”, mà còn bởi họ được chứng kiến cảnh chém ngựa, tắm máu man rợ, cuồng điên của Độ vào buổi chiều “bầu trời bẩn lắm”, “có nắng, nhưng cũng nhiều mây, thứ mây đen tối bao phủ trên nền trời đất nước”. Họ biết rõ Độ sẽ là người làm nên nghiệp lớn của họ Trần, và họ cũng biết không ai trong gia tộc này đủ sức thách thức và chống đối trước sức mạnh, và những ham muốn của Độ. Tất cả chỉ dám nhìn Độ bằng đôi mắt “mở căng khiếp đảm” của Trần Thị hay đáng thương hơn, bằng đôi mắt của “Lý Huệ Tông sau này ở chùa Chân Giáo”.
3. Sự “tùy tiện” như... một phản ứng
Như vậy, cả ba chân dung Nguyễn Huệ, Ngọc Hân, Trần Thủ Độ đều được xây dựng bằng những nét sắc, đậm, ác và tàn bạo. Tất cả như kết quả của “sự tùy tiện” phá phách của Trần Vũ trong thái độ, trong cách tiếp cận và trong cách “xử lí” đề tài lịch sử. Bản thân sự tùy tiện ấy là một phản ứng. Phản ứng trước thói quen và cách ứng xử “lành vô cùng” với đề tài lịch sử của các nhà văn Việt. Phản ứng trước niềm tin và sự ngưỡng vọng vẫn tồn tại như một tín ngưỡng trong tâm thức cả cộng đồng. Phản ứng ấy cho người ta biết đã đến lúc các nhà văn Việt phải tự thoát khỏi những bóng ma quá khứ và “những nỗi hãi sợ cung đình”(8), đã đến lúc phá vỡ quyền lực quá khứ vốn ngự trị quá lâu trong tiềm thức mỗi nghệ sĩ Việt, mỗi nhà văn Việt. Bởi trong tác phẩm văn học mỗi nhân vật lịch sử, mỗi sự kiện lịch sử không có thẩm quyền gì hơn là một chất liệu văn học. Và ở đó, nhà văn với tư cách một nghệ sĩ có toàn quyền sử dụng chất liệu ấy theo ý mình, để phục vụ tối ưu cho mục đích nghệ thuật của mình.
Như trong các tác phẩm “giả sử” của Nguyễn Huy Thiệp, ở đây Trần Vũ cũng dùng “lịch sử làm tay sai cho những điều muốn nói”. Chỉ có điều cái đích mà hai tác giả nhắm đến hoàn toàn không giống nhau. Nói như tác giả tiểu luận Sóng từ trường, “Nguyễn Huy Thiệp đánh đổ thần tượng quá khứ” như một cách “dùng chổi quá khứ để quét hiện tại và dọn tương lai”(9). Như thế, Nguyễn Huy Thiệp “dùng lịch sử với chủ đích nhân bản, cải tiến xã hội. Nguyễn Huy Thiệp tin vào con người”(10). Nhưng Trần Vũ thì khác. Với những phân tích ở trên, có thể thấy, phần nhiều những bịa tạc, thậm chí “xuyên tạc” (cái mà chúng ta vẫn gọi là) “sự thật lịch sử”, không nhằm vào chủ định “kiến thiết”, hay tạo dựng. Chủ định lớn nhất ở cây bút này là “đập phá” và “tiêu diệt”, mà cái nhà văn muốn đập phá ở đây là “những ảo tưởng tốt đẹp” về “nhân vật lịch sử”, ảo tưởng về “một thứ phụ nữ nết na, hiền hậu, đẹp và sang, phục vụ tổ quốc như Ngọc Hân công chúa”(11). Người đọc ngỡ, qua những dòng chữ trong từng trang văn của mình, Trần Vũ như đang kiên quyết khẳng định với họ rằng: “Làm gì có thế? Đằng sau bộ mặt đẹp hẳn phải có một “thú tính” nào đó – hoặc đanh ác, chua ngoa, hoặc lừa lọc, dâm đãng – nếu không xuất đầu lộ diện trong cách xử sự, thì cũng sống ngầm trong tiềm thức, trong vô thức”(12).
Với quan niệm “cực đoan” như thế và cách biểu hiện “cực đoan” không kém, Trần Vũ muốn cho chúng ta thấy “một hiện thực không giả” – “sự tàn bạo trong chiến tranh, trong các nhân vật lịch sử, trong thiên nhiên, vạn vật và con người”(13), và một sự thật tàn nhẫn khác, rằng “diện mạo anh hùng của các nhân vật lịch sử mà người ta thần tượng hóa, tiếc rằng chỉ mới có một nửa: Phơi ra áo gấm trạng nguyên rực rỡ huy hoàng và cất đi bộ mặt sát nhân tàn ác”(14). “Sự tùy tiện” của Trần Vũ đã và sẽ còn “được” nhận những chỉ trích không ngớt từ phía đám đông cộng đồng, nhưng hình như Trần Vũ không hoàn toàn cô đơn trong khát vọng và chủ đích của mình. Trước đó, Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Mùa trái cóc ở miền Nam – viết về những người lính ngay sau 30 tháng 4 năm 1975, ra đời năm 1987, từng cho nhân vật của mình lên tiếng trước sự “sạch sẽ” đầy giả dối của lịch sử “được chép thành văn”, thứ lịch sử đã được “gọt rũa”, được biên tập – “Nhờ nghe hóng tôi biết được ối chuyện, tôi biết cả trong và sau trận đánh lịch sử cuối cùng ấy đã chứa đựng biết bao chuyện thật và chuyện giả dối đến mức đau lòng. Cái nghiệt ngã sẽ lắng đọng mãi mãi trong trí nhớ những thằng lính đang ngồi với tôi đây nhưng nay mai mỗi đứa một ngả, còn lịch sử viết thành văn bao giờ cũng trang trọng và sạch sẽ”(15). Khi từ chối viết về lịch sử như những gì được chép trong chính sử, và như những gì cộng đồng vẫn hiểu và tin, Trần Vũ và những nhà văn “cùng chí hướng với mình”, không những đã công khai từ chối làm tên “tuyên truyền viên” cho niềm tin và tín ngưỡng của cộng đồng, mà còn cho thấy, họ – những người viết nên “bộ mặt tàn bạo của lịch sử”, đã “đi xa hơn lịch sử, để xâm nhập vào lãnh vực con người”(16).
Đến thời điểm này, sau hơn hai thập kỉ từ khi Trần Vũ viết Mùa mưa gai sắc và Gia phả, trong văn học Việt Nam, thái độ ứng xử đặc biệt dè dặt và thận trọng như Nguyễn Mộng Giác trong Sông Côn mùa lũ – “khi viết Sông Côn mùa lũ, tôi chú trọng phần tiểu thuyết hơn phần lịch sử. Nhưng trong phần lịch sử, tôi không dám mạnh tay gạt phăng những gì còn ghi lại trong tài liệu lịch sử”(17), vẫn là xu hướng chính yếu và chính thống trong các tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Thực tế này có thể làm yên lòng những ai coi mỗi tác phẩm văn học là một trợ thủ trung thành và đắc lực cho những trang sử thành văn, và các tác giả của nó có thể tự hào rằng mình đã cho ra đời những tác phẩm “ý nghĩa” và có “tính giáo dục cao”. Nhưng giá trị của một tác phẩm văn học chưa bao giờ và sẽ không bao giờ nằm ở việc nó đã thực hiện hoàn hảo chức năng trợ thủ đắc lực cho bất cứ quyền lực nào, tất nhiên là cả chính trị và những giá trị lịch sử đã được đám đông tập thể đóng dấu.
Và vì thế, chừng nào chúng ta vẫn ứng xử với đề tài này như một thứ đề tài thiêng liêng, chừng nào vẫn tồn tại những cấm kỵ bất thành văn, chừng nào những hư cấu về các nhân vật, sự kiện lịch sử trượt ra ngoài cái mẫu chính được chép trong chính sử và thái độ công khai nghi hoặc về tính xác thực của lịch sử chép thành văn, còn bị xem là một sự tùy tiện thậm chí một sự “vu khống, chụp mũ, xúc phạm” (Nguyễn Văn Trung) các anh hùng lịch sử và bôi nhọ lịch sử dân tộc, thì chừng ấy người viết và (cả độc giả Việt) vẫn chưa thoát khỏi sự uy hiếp từ những quyền lực ảo của thứ bá quyền quá khứ đã ngủ yên trong bóng tối của những thế kỷ đã rất xa. Và quan trọng là, chừng ấy, người cầm bút Việt, vẫn chưa ý thức được tư cách và thẩm quyền nghệ sĩ của mình, vẫn chưa giành được quyền tự do viết của một người sáng tạo, thậm chí vẫn nhầm lẫn giữa giá trị của một tác phẩm nghệ thuật đích thực với tính cổ động và giác ngộ của những tác phẩm tuyên truyền, và những cuốn sách giáo khoa học đường. Như thế, đến đây nếu chân thành và sòng phẳng, có thể thấy “sự tùy tiện” phá phách và khiêu khích của Trần Vũ trong các tác phẩm của mình, thực chất là một thái độ can đảm, thậm chí có thể tự tin là không quá khích khi xem nó như một hành động cách mạng, một cách ứng xử có thể gây sát thương vào lòng tự hào và tự tôn cố hữu của người Việt, nhưng đồng thời có khả năng thức tỉnh và “đặt lại vấn đề” trước những thói quen, những căn bệnh, những nỗi sợ hãi ám ảnh quá lâu trong tâm thức mỗi nghệ sĩ Việt.
Đoàn Huyền, Hà Nội, 13/01/2012, (Sửa lại: 21/01/2013)
Những trích đoạn trong hai tác phẩm Mùa mưa gai sắc và Gia phả, được lấy từ trang mạng www.tranvu.free.fr
(*) Khi được hỏi về các nhân vật của Mùa mưa gai sắc – “truyện ngắn gây nhiều bất mãn”, trong cuộc phỏng vấn do Lê Quỳnh Mai thực hiện, Trần Vũ trả lời về Nguyễn Huệ của mình: “Hoàng đế Quang Trung trong tâm trí tôi phải mang hình ảnh Thành Cát Tư Hãn vó ngựa trường chinh, bách chiến bách thắng và có chất… thổ phỉ”.
(1),(5),(6),(7)Phỏng vấn Trần Vũ, Lê Quỳnh Mai thực hiện, nguồn: www.tranvu.free.fr
(2),(3),(4),(8)Lịch sử trong tiểu thuyết, một tùy tiện ý thức, Trần Vũ, nguồn: www.tranvu.free.fr
(9),(10),(11),(12),(13),(14),(16)Về trường hợp Trần Vũ, Thụy Khuê, nguồn: www.thuykhue.free.fr
(15)Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu, NXB Văn học, 2000, trang 524-525.
(17)Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử, Nam Dao, Nguyễn Mộng Giác, nguồn: www.nhanvan.com