Skip to content Skip to sidebar Skip to footer

Phỏng vấn nhà thơ Lê Chiều Giang – Triều Hoa Đại

Triều Hoa Đại

Phỏng vấn nhà thơ Lê Chiều Giang

LCG April 2021

Bài phỏng vấn sẽ được in trong tuyển tập “ Đốt Lửa Soi Rừng” của Triều Hoa Đại, Lê Chiều Giang là một trong 12 tác giả góp mặt.

Lâu lắm rồi, từ những năm 1999, có lẽ là như vậy. Kể từ lúc tạp chí Văn Học của nhà văn quá cố Nguyễn Mộng Giác, rồi Thế Kỷ 21, Văn và Hợp Lưu… cho đăng rải rác những bài thơ của một người cứ tạm coi như là ở một “hành tinh” khác chợt bay vào làng thơ hải ngọai với cái tên “Giang”. [Năm 2014, bút hiệu đổi thành Lê Chiều Giang, khi góp mặt trong tác phẩm “Nguyễn Xuân Hoàng trong và ngoài văn chương” do Da Màu thực hiện].

Độc giả và văn hữu vừa ngạc nhiên, vừa thích thú  đón nhận những hương thơm trong vườn thơ rất lạ.. Thơ của Lê Chiều Giang đọc lên nghe vừa bương bướng, vừa quyết liệt lại xa xót, ngậm ngùi. Thú vị hơn nếu trên tay có một ly rượu chát với chút ánh đỏ của ráng chiều, và rồi hãy nhẩn nha cùng nhau đọc thơ của Lê Chiều Giang. Hoặc với một ly cafe ngát thơm đầu ngày nắng gọi thì mới thấy, thì mới ngấm  đến tận cùng  cái thú của đọc thơ.

Vậy thì Chiều Giang là ai? Bạn bè trong giới thầm hỏi, và rồi biết được rằng Lê Chiều Giang là hiền thê của cố họa sĩ Nghiêu Đề một hoạ sĩ tài hoa, một người mà trái tim luôn luôn mở rộng để chào đón bạn bè.

 Những bài thơ của Lê Chiều Giang như những kỷ niệm được cất giấu, như những êm đềm một thuở xa xưa ấp ủ bỗng giờ đây thức giấc với nhân gian, Lê Chiều Giang và cố hoạ sĩ Nghiêu Đề  đã một thời sống với, sống cùng, rất tha thiết với bạn bè. cho nên trong phần mở đầu tập: Không Đứng Mãi Trong Tranh nhà văn Nguyễn Thi Thuỵ Vũ đã viết:” Chúng tôi sẽ đọc Lê Chiều Giang, những dòng chữ chảy lui về quá khứ. Một quá khứ của thời đã “ chết đi, sống lại”.

Trò chuyện với Lê Chiều Giang hôm nay chúng ta sẽ tìm lại những gì đã mất, chúng ta sẽ với nhau (hy vọng) sẽ cùng hát lên những bài ca của Sài Gòn thuở trước với Nguyễn Đình Toàn, với Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, với Nghiêu Đề, với Lê Chiều Giang ở những đêm trăng sáng nơi thuyền trôi tưởng như cùng với Lưu Nguyễn đi vào cõi mộng.

 Nắng đã lên cho một ngày mới. Xin mời mọi người hãy cùng tôi, chúng ta cùng nhau vào chuyện với nhà thơ Lê Chiều Giang.

Triều hoa Đại: Thưa chị khởi đầu cho cuộc trò chuyện này cũng như thường lệ là gia chủ vậy thì không gì bằng xin chị tự giới thiệu về mình đôi chút.

Lê Chiều Giang:”Tiểu sử”, với tôi là lan man trong những bài tôi đã viết. Những thoáng qua, những nho nhỏ của một đời người. Có khi chính là tôi đó chứ, lại nhiều lúc chẳng rõ nét chút nào. Thôi, anh cứ nhìn tôi như một bức tranh siêu thực. Mông lung và mờ ảo.

Thđại: Có đường đột lắm không thưa chị khi mà đọc giả nôn nóng muốn được nghe chị kể về cái thuở xa xưa với những kỷ niệm đầy ắp ở những thuyền trôi mà chị đã cùng với những bạn bè “đi”  dưới ánh trăng đầy thơ, đầy mộng bên dòng sông Thanh Đa của Sài Gòn xưa cũ.

LCG: “Ôn bài” thiệt khó, nhất là phải ôn lại những cảm xúc. Anh cho phép tôi trích đoạn nhé:

“…Thanh Đa, chúng tôi sống trên một chung cư lầu ba, nơi mà, mỗi sáng nhìn dòng sông với mặt trời soi rọi rất đẹp của bình minh, tôi vẫn cảm nhận ra chút dịu dàng, cho dù đời sống  lúc nào cũng như một chảo lửa đốt cháy hết sự sống của cả một quê hương.

Sông Thanh Đa có chiếc ghe của bà Mười đưa khách từ Làng Báo Chí qua lại. Với chiếc ghe nhỏ xíu đó, chị Nguyễn Thị Thụy Vũ và anh Nguyễn Đình Toàn đến chơi Thanh Đa thường hơn. Mỗi lần chị đứng bên kia sông réo gọi, và anh Toàn đưa tay vẫy…

Chúng tôi luôn có với nhau những bữa cơm rất tội nghiệp, chỉ một tô canh thôi, và tôi thường phải giải thích với chị Thụy Vũ: “Thấy chị qua em đã thêm nước vô cho nó nhiều”. Anh Toàn hỏi thêm trước khi cầm muỗng: “Thêm nước thì hiểu được, nhưng rồi Chiều Giang có nấu lại không?” Vậy đó thôi mà cười tung toé.

Những đêm trăng, chúng tôi xuống hết chiếc ghe nhỏ với cây guitar của Trần Quang Lộc hát hò tới nửa đêm. Nhạc Nguyễn Đình Toàn được hát bởi Khoa, bạn của Trần Quang Lộc. Anh Duy Trác không bao giờ hát… dưới ghe, nên anh Toàn, Khoa, Lộc và tôi thay nhau hát. Hát say mê dưới trăng sáng mơ màng trên sông, hiu hiu chút gió và tiếng khua nước của ghe chèo…

Bóng trăng có khi bị che khuất bởi những tàn cây ven sông, và bóng tối như đã ôm ấp tiếng hát nghìn trùng của chúng tôi, trải dài những âm vang dặt dìu xuôi theo dòng nước.[Trích:”Nghĩ với Trần Quang Lộc” KĐMTT]

Nhạc sĩ Trần Quang Lộc và Lê Chiều Giang.

Thđại: Bây giờ chúng ta nói tới KĐMTT, tác phẩm rất mỏng của chị, Nhân Ảnh in với bìa thật đẹp, tranh của anh Nghiêu Đề.

Bác sĩ, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc ông cứ thắc mắc:” không biết nên gọi KĐMTT là gì cho đúng?, Tuỳ bút? Không phải. Tản mạn? không phải. Viết ngắn? không phải. Thơ…ừ, thơ “Đúng là thơ rồi”, nó cuốn hút, nó xao xuyến, nó ray rứt…“ [Trích Đỗ Hồng Ngọc]. Đọc mãi tìm hoài, cuối cùng ông đã tìm ra KĐMTT là thơ. Còn chị thì mọi người nên gọi thế nào cho chính danh?

LCG:

Họa sĩ  Trịnh Cung hay anh Phan tấn Hải khi viết bài điểm sách về cách tôi viết. Thiên hạ cứ nhất định cho rằng tôi viết gần như một bài thơ dài.

Chữ nghĩa, với tôi tự nó muôn đời đã lả thơ. Như đôi khi dù tôi đã gửi bài cho những tạp chí cả tuần rồi, tôi vẫn hay gửi lại chỉ vì muốn sửa một chữ nào đó, cùng một nghĩa, nhưng âm giai khi đọc nó không bị gượng ép. Vậy mà tôi vẫn không nghĩ mình đã viết như thơ, hình như nó lại là như…hát.

Thđại: “Không Đứng Mãi Trong Tranh”, tại sao lại thế được nhỉ, độc giả thắc mắc là bởi những bức tranh mà cố hoạ sĩ Nghiêu Đề đã vẽ ra và hiện nay còn được cất giữ từ những người yêu mến ông thì ở trong đó không một bức tranh nào không có bóng dáng của chị thì sao lại bảo là: KĐMTT?

LCG:

Như một sự phải “Bước ra với đời”, nên tôi “Không đứng mãi trong tranh”. Trong bài thơ “Đầu hàng”, tôi tâm sự rằng: Sau những năm dài, vai góa phụ tôi đã “diễn” xong. Hăng hái lắm, tôi trở lại với đời, nhưng tôi lạc lõng, và khi nhìn chung quanh chỉ còn là những úa tàn, khô héo, nên tôi lại phải:

“…Bước lại trong tranh. Và

Diễn tiếp.

Hỡi thế gian. Ta

Bỏ cuộc chơi.”

[Trích “Đầu Hàng”. KĐMTT]

Thđại:Thơ chị dọc lên thiên hạ bảo là: sao nghe như có những tiếng thở dài, những nuối tiếc, những muộn phiền cam chịu của một hạnh phúc, một số phận, những mặn nồng chưa thoả chị có đồng ý thế không?

LCG: Dạ, có thở dài, có tiếc nuối…Nhưng tôi không “cam chịu”, bởi thật phi lý nếu tôi cứ nhất định ngồi hết với “Tiết hạnh” xxong rồi lại với “khả phong”.

“…Vai “Đào thương” ta đóng

Đã xong.

Thì đi bước nữa. Rồi

bước nữa.

Bảy tỷ!

Nhân gian chẳng thiếu ai

Chợt nghe trong gió lời bạt mạng

Chẳng thiếu ai, vẫn thiếu …

Một người.”

[Trích:”Cinema” KĐMTT]

Thđại: Là vợ của một họa sĩ tiếng tăm chị nghĩ sao khi mỗi lần bán được tranh thì Nghiêu Đề cho rằng: “ cứ như là một sự “lường gạt”  khi ông trả lời với nhà văn Nguyễn Ngu Í là bởi tiền nhiều quá “Tôi thấy số tiền đó như từ trời rơi xuống”, công sức của Nghiêu Đề và cả của Người Đứng Mãi Trong Tranh thì sao lại bảo là “lường gạt”, lại bảo là “từ Trời rơi xuống”?

LCG: Tự cười cợt, chế nhạo mình là cách sống của anh Nghiêu Đề. Như khi Nguyễn Đức Quang phàn nàn, hoạ sĩ mà sao nhà không treo bức tranh nào của chính mình? Anh giải nghĩa:” Lừa gạt để thiên hạ treo tranh mình đã là quá đủ, phỉnh phờ chi nữa với vợ với con?”.

 Đặc biệt nhất anh thường nói với bạn bè, không ai nhận xét tranh Nghiêu Đề đúng bằng Bé Búp. Khi cô con gái 3 tuổi của chúng tôi nửa đêm dụi mắt, chập chững ngang qua chỗ anh Nghiêu Đề đang vẽ, buông lời phê phán:” Bố vẽ con Ma,…”. Và anh nhận ra Bé Búp mới là người phê bình tranh Nghiêu Đề chân thực nhất, đúng nhất.

Thú vị hơn nữa, khi anh được Medal cho giải Hội Hoạ năm 1962. Một bạn thân từ Huế lang thang vô Saigon, Nghiêu Đề đã tặng để bạn bán đi cho những bữa Cơm Xã hội và những ly nước mía. Với anh, sống là một cuộc vui chơi cùng bè bạn, Medal hay gì gì đi nữa, cũng chỉ là những   phù phiếm, bọt bèo.

Thđại: Cố hoạ sĩ Nghiêu Đề đã từng vẽ ra hằng trăm bức tranh nhưng ông ấy lại nói : “ tôi thích nhất bức”Chân dung của Lê”. Của Lê? Chắc là Lê Chiều Giang phải thế không nào?

LCG: Ngày anh Nghiêu Đề, mang” Chân dung của Lê” tới phòng triển lãm năm 1962, tôi còn là một cô bé nhỏ xíu, mới học lớp một. Thưa Anh.

“Định mệnh” là những gì rất lạ lùng, và vô cùng khó hiểu.

Thđại: “Hội họa là thi ca được nhìn thay vì cảm, và thi ca là hội hoạ được cảm thay vì nhìn” do đó “ thi sĩ và hội hoạ chỉ khác nhau về phương tiện và chất liệu sáng tạo nhưng cứu cánh là một” người ta cho là như thế vậy còn với nhà thơ Lê Chiều Giang?

LCG: Tôi rất đồng ý với anh về: Tranh là một bài thơ để đọc và thơ là một bức tranh để xem.

Nhưng để sáng tạo ra một bức tranh, bên cạnh tài năng, Họa sĩ còn phải là người kiên nhẫn.

Anh Nghiêu Đề khi vẽ xong tranh, nếu không bằng lòng chi tiết nào đó, có khi Anh cần cả tháng hay lâu hơn thế để vẽ lại. Thơ thì dễ hơn nhiều lắm, dù như anh nói “cứu cánh” đều như nhau.

Thđại: Một bức tranh đẹp là “hôn lễ của trần gian” thế còn một bài thơ hay theo chị là gì?

LCG: Bức tranh xấu, đẹp được đánh giá qua chủ quan của từng người khi thưởng lãm nó. Tôi hiểu câu hỏi của anh hoàn toàn theo nghĩa đen, nên với tôi Van Gogh, Michael Angelo…Dù tranh, tượng rất đẹp, nhưng họ đã chẳng có một “Hôn lễ” nào như anh định ví von.

Thơ “hay”? Thôi, tôi đành coi là…Hôn lễ của trần gian như ý của anh vậy.

Thđại: “ Văn chương hải ngoại rẻ như trứng gà” nhà văn Tuý Hồng bảo thế, là một nhà thơ chị có cho đó là một điều xúc phạm?

LCG: Nếu người viết trang trọng đủ với “chữ” và “nghĩa”, họ sẽ thấy Chị Túy Hồng không hề xúc phạm và không thể xúc phạm gì đến họ. Thưa anh.

Thđại: Cũng vẫn theo nhà văn Tuý Hồng thì:” Ở hải ngoại nhiều người viết văn kiêm làm thơ. Tài không? …tuy đáng yêu, thơ hải ngoại không khỏi vấp phải một khuyết điểm chung: chữ nhiều nhưng nghĩa ít…” là nhà thơ chị có ý kiến gì về vấn đề này?

LCG: Đó là khi tôi làm thơ, rất ngắn. Tôi viết cũng không bao giờ dài hơn điều cần diễn tả.

Có thể tôi không có khả năng làm thơ dài, hay viết ra những truyện kể lê thê bất tận…Tôi thích sự vừa đủ.

-Ta?

-…Tố!

-Ta tố hết:

Đời.

Canh bạc cuối

Người dám cùng ta. Chấp?

cuộc chơi.

Hay thôi,

ngồi lại ta cùng uống

Bàn chuyện nhân gian vá đất trời

Nói về trăng tan và

Tuyết nguyệt

Một chút hoàng hôn

Chút mưa bay..

Chỉ xin đừng nhắc thêm gì nữa

Chuyện ta yêu người hay

Yêu ai?

[Trích:”Poker” KĐMTT]

Thđại: Chị làm thơ có dễ không, tôi biết có nhiều người khi sáng tác họ cần một không gian tĩnh lặng, một chút cafe, một chút âm nhạc, một chút…chị có cần những chuyện như thế để giúp đẩy đưa trong lúc “với thơ”?

LCG: Tôi không làm thơ trong những giây phút mơ màng, cũng chẳng phải ngay lúc khổ đau.

Chữ nghĩa chợt đến, như một sáng ngồi trên cỏ mướt xanh, với nắng vàng rực rỡ:

Ta chôn chồng ta

Một lần.

Duy nhất.

Ở giữa rừng gai

Không hoa trái mọc

Đất.

Đá.

rực cháy những lửa

Điêu tàn.

Ta đứng giữa trời

Lặng thinh.

Không khóc…”

[Trích” 1998” KĐMTT]

Thđại: Hãy kể thêm về những kỷ niệm êm đềm của Sài Gòn năm xưa, những sáng, những chiều trốn lễ nhà thờ, trốn trường lớp để được ở gần CHÀNG và  ở gần những bức tranh chưa ráo nước sơn?

LCG: “... Những lần trốn học, bỏ nhà thờ, tôi hay tìm đến với Tranh, hít hà mùi sơn dầu chưa khô và trầm ngâm bên cạnh những màu sắc, bố cục mà tôi chẳng hiểu chút gì.

Những khi hò hẹn, phở chỉ một tô, nước mía lề đường có mỗi một ly. Anh Nghiêu Đề ngồi nhìn tôi uống hồn nhiên như tôi khát đâu đã từ tháng trước…Dễ thương nhất là có một chiều, chúng tôi và anh Trần Tuấn Kiệt ngồi ở La Pagode. Anh TTKiệt màu mè hỏi nếu tôi muốn uống thêm? Thích sữa tôi “dạ”. Đến lúc tôi hối anh Nghiêu Đề cho về, vì giờ hẹn hò của tôi phải chấm dứt khi Thánh lễ hết, và nhà thờ sắp đóng cửa. Anh chần chờ, lần khân…Sau này tôi mới hiểu chỉ tại ly sữa uống thêm của tôi, mà anh Nghiêu Đề phải ngồi chờ để anh TTKiệt hớt hải qua bên Khai Trí tìm xem có Văn nhân Thi sĩ nào lảng vảng, hỏi mượn vài đồng trả thêm cho ly sữa… Và nạn nhân hôm đó là Ngọc Thứ Lang, dịch giả đang giàu có với “Bố Già”.

Thđại: Có nên không nhờ chị đưa chúng tôi vào “thăm” lại nơi chốn mà CHÀNG cùng những người hoạ sĩ tài danh của hội hoạ sĩ trẻ đã trưng bày tranh của họ, nhưng nay mọi sự đã trễ tràng duy chỉ có một mình chị lả có thể giúp ôn lại “sau, xưa” nơi chốn ấy, chị có thể vẽ” lại cái khung cảnh trước và sau mỗi kỳ triển lãm mà chị hằng có mặt?

LCG: “…Không khí phòng triển lãm Alliance Française, tràn đầy những tinh hoa, thoát bay và ấm áp.

Khói thuốc Haft & Haft thơm tho, Basto nặng nồng, hay Lucky mờ mịt. Mắt tôi bốc cay với khói mà tưởng như có thêm cả chút nồng nàn, sướt mướt.

Những bức tranh với tên gọi bàng bạc như Thơ.

Anh Trịnh Cung với “Vương Hương”; “Trăng, Chim, Hoa và Nàng” của anh Đinh Cường; Nghiêu Đề với “Vùng Thanh Thoát”; và Nguyễn Trung của “Đêm Chân Không” …

Tôi mê những bức tranh cổ điển của anh Đỗ Quang Em. Ánh sáng và bóng tối, lạnh toát hay vắng tanh, anh đã làm ấm lại trong tranh chỉ với chút ánh đèn dầu le lói.

Và tranh Cù Nguyễn đẹp như một thinh lặng, gắn bó cùng nỗi chết, đâu đó mãi tận cuối chân trời.

Sàigòn, những ngày xao xác cùng chiến tranh, những lửa đạn kinh hoàng Khe Sanh, Quảng Trị…

Đạn lạc tên bay tận những nơi xa vời để bảo vệ cho Sàigòn. Một Sàigòn không tiếng súng.

Và tôi, trốn hết học hành trường lớp. Tôi mê muội theo những hương thơm ngát của sơn dầu, tôi bàng hoàng bên những nét cọ sắc sảo. Nét cọ mà khi dào dạt cùng tranh, đã phải óng ánh hơn những nét bút rời rạc; chữ nghĩa lơ mơ chợt quên, chợt nhớ của tôi trong trường thi, lớp học.

Tôi bị cuốn theo những chiều rực rỡ La Pagode, những đêm Givral hoa đèn lấp lánh.

Và cả với những sáng khi Sàigòn còn mờ hơi sương, lúc phòng tranh chưa mở cửa. Nơi đó, có năm bảy chàng họa sĩ trong Hội Họa Sĩ Trẻ, ngồi nghi ngút cùng café bên góc hè của Continental Hotel, ngay cạnh phòng triển lãm Alliance Française.

Hình ảnh mà sau này tôi xem trong phim tài liệu về những Họa sĩ thuộc thế kỷ 19th: Claude Monet, Rodin, Degas, Renoir, Cezanne… Họ đã có những sáng vang vang bốc khói cùng café, những đêm rượu đổ đầy đường trên phố Montmartre. Họ cũng đã ngồi cùng nhau bên những câu chuyện đầy màu sắc, ấm áp và chan chứa nhiệt tình, không khác gì những vị trong Hội Họa Sĩ Trẻ.

Từ The Boulevard Montmartre tới Đại Lộ Tự Do Sàigòn.

Trăm giấc mơ đã cùng với khói thuốc mịt mù bay, họ say sưa bàn bàn, nói nói về những tác phẩm tinh khôi, nhằm sáng tạo ra nhiều nét khác biệt hẳn với những tàn dư cũ.

Những bước chân reo cho một ước mơ dài: Làm mới, làm thăng hoa thêm cho nền hội họa của Miền Nam Việt Nam…

“…Tôi cafe mỗi sáng, rượu đỏ mỗi tối bên những tranh của Đỗ Quang Em, Nguyễn Trung, Đinh Cường, Nguyễn Lâm, Ngy Cao Uyên, Nguyễn Phước…Những xanh mượt mà. Những vàng ánh xôn xao. Những đỏ thắm như mặt trời, trắng xóa như chẳng còn thấy gì, những âm u lạnh toát trong tranh Nghiêu Đề…

Bắt chước La Dolce Vita, tôi thắp sáng những ánh đèn, tôi tạo ra một không gian ấm áp và bừng lửa. Ánh sáng trầm như nhạc, sắc như gươm đã như ngàn tiếng hét hò trong đời sống tôi: Lặng im.

Ánh sáng như giục giã, như gọi mời, để lắm khi dù đêm đã sắp tàn, những nhân vật vẫn lặng lẽ, vẫn mơ hồ bước ra từ tranh. Họ điềm đạm ngồi uống với tôi, nhắc lại cùng tôi những điều rất xa xôi từ trăm năm cũ.”[Trích: Nhớ Về Hội hoạ sĩ trẻ. KĐMTT]

Opera / Tranh sơn dầu Nghiêu Đề 1977

Thđại: Có lúc chị đã thử cầm cọ như CHÀNG (Nghiêu Đề) nhưng xem ra khung bố cũng như sơn có vẻ như không thích hợp nên chị đành vứt bỏ và chị đã quay sang “thơ”  có phải thế không nào?

LCG: Cái ngây ngô rất dễ thương của tôi khi ghi danh học hội họa, chỉ là vì nhớ như điên cái mùi hăng hăng của sơn dầu, chút hương mà tôi đã hít thở suốt 25 năm dài. Đến khi vẽ tôi mới hiểu ra rằng, để có một bức tranh đẹp, Họa sĩ không thể vẽ bằng khứu giác. Họ cần rất nhiều tài năng, những điều mà tôi chẳng hề có.

Thđại: Chị nói nhiều về TRĂNG tôi chắc là chị “mê” Trăng lắm, “ Lune, quel esprit sombre/ Promène au bout d’un fil, /Dans l’ombre..” , vậy ngoài trăng, ngoài những bức tranh còn ướt mực sơn ra chị còn thích những thứ gì khác nữa?

LCG: Tôi vẫn muôn đời chỉ mê Trăng. Trăng như thời thơ ấu, vàng soi trên cánh đồng mênh mông sáng. Trăng như dấu chấm trên đầu chữ I của Alfred De Musset, với giọng đọc mơ màng từ người Thày cũ. Trăng vời vợi như một đêm trên cầu Charles Bridge Tiệp Khắc, với tiếng Violin tuyệt vời của người hát rong mà tôi suýt mơ để đi hát dưới chân cầu, góc phố như một Bohemian. Và Trăng thảm thương như nước mắt tôi rơi suốt trên đường về nhà, nơi có anh Nghiêu Đề thoi thóp đợi.

Người ta chọn lớp học, trường thi, chọn người để yêu thương và ngay cả chọn nhà, chọn phố…

Nước mắt tôi rơi như sông như suối, khi tôi đã vừa chọn xong chiếc quan tài. Tôi đứng chơ vơ giữa chồng chất áo quan, chọn lựa rất lâu trong kinh hoàng, khiếp sợ. Và cuối cùng tôi đã “chọn” xong. Đêm đó, trăng sáng một cách lạ lùng. Trăng của nỗi chết.

Nhưng mới đây thôi, tuần trước. Trăng đỏ như lửa. Khi nhìn trăng đỏ như máu ai, cũng là lúc tôi nghiệm ra nhiều điều thay đổi, là lúc tôi tập sống với một vầng trăng mới. Chỉ vì, thưa anh: Cũng có khi trăng đỏ.

Thđại: Sau cùng một câu hỏi chót muốn được nghe chị cho biết dự tính về những ngày phía trước, những ước mơ và mơ ước chắc là đã có nhưng chưa kịp đơm mầm?

LCG: Tới một giai đoạn nào đó của đời người, phải chăng chúng ta đã chẳng còn can đảm nào cho một ước mơ? Tôi không còn nghĩ đến, nhưng biết đâu anh Nghiêu Đề vẫn còn nấn ná với nhiều mơ ước, dù rất lâu rồi đã bỏ đời ra đi.

Kể với anh chút chuyện gia đình. Khi anh Ngô Thế Vinh xuống thăm, nhắn nhủ 3 đứa nhỏ của chúng tôi: đừng theo nhau học ngành thuốc men, như gia đình người bạn trên San Francisco. Gia đình mà 7 người đều là Bác sĩ. Mỹ nó đã chẳng thể nào hiểu nổi. Lập tức anh Nghiêu Đề buông lời bông đùa:” Thôi ông Vinh, 7 đứa bác sĩ trong một nhà thì rất khó hiểu. Nhưng nếu tôi nói rằng:” Thưa bạn, gia đình chúng tôi tổng cộng có 7 Thi sĩ, hay 7 Họa sĩ !”. Thì chắc cả thế giới này sẽ đều không hiểu…

Mang trong tâm thức một đời sống nhiều tai ương, nhọc nhằn. Anh Nghiêu Đề chỉ muốn con cái đừng nối điêu theo lối sống đầy va vấp như chính mình. Nhưng cô út của chúng tôi. Sau khi tốt nghiệp Stanford rồi PHD ở Berkeley… Lại chẳng thiết tha gì với những thứ đã học. Khải Thư nghe theo lời kêu gọi của Art. Ngành Đạo diễn!

Art. Âm vang của những gì đẹp nhất, thanh thoát nhất. Nhưng Art là tiếng nói của một đời sống bấp bênh với rất nhiều bất trắc. Và chắc là ở nơi xa xăm kia, anh Nghiêu Đề đang lo lắng, đang sợ hãi… Anh đành phải thuận theo để cùng mơ ước, mong  Khải Thư Nguyễn thành công trong sự lựa chọn đầy thơ mộng này. Thưa Anh.

Thđại: Xin cám ơn chị, nhà thơ Lê Chiều Giang đã dành cho chúng tôi có được buổi trò chuyện thân mật này, kính chúc mọi điều tốt đẹp ở mãi cùng chị và gia đình.

LCG: Cám ơn anh Triều Hoa Đại. Nhưng vẫn thắc mắc sao anh nhất định cứ cho tôi thành “Thơ”? Trong “Không đứng mãi trong Tranh”, tôi còn có 20 bài viết về “Mơ” nữa chứ. Hay anh nghĩ như anh Đỗ Nghê rằng: Tôi viết như thơ, những bài thơ dài lắm…

Và để kết thúc cho có hậu với cuộc phỏng vấn của anh hôm nay, tôi đọc anh nghe một bài thơ ngắn nhất.

“ Ta mê người

Trái tim liều mạng

Dốc hết giang san:

Một môi cười

Thế giới?

Nhỏ.

Như vài chiếc lá.

Giật mình. Ta

Chắc phải yêu thôi.

[Trích: ”Liều mạng”]

Phần Văn Thơ trích

RƯỢU ĐỔ TRÊN TAY

Thôi, tôi sẽ chẳng nói gì nữa đâu về những điều rất cũ. Bao chữ nghĩa đã mỏi mòn diễn đạt mãi về mối tình đầu tiên, những đam mê, quyết liệt của nhân duyên thứ nhất.

Và cũng đã khai không thiếu chút gì về những ngọt ngào, tha thiết của cuộc hôn nhân thứ hai…

Nhưng cách nào, và làm sao để chúng ta có thể chắt lọc, cắt lìa ra hết một quá khứ? Mà trong nó là trùng trùng những đan, những chéo của suốt bao nhiêu năm dài.

**********

Charles Bridge, chiếc cầu có nắng sớm của bình minh và cả sắc đỏ đậm đà khi chiều xuống, tùy theo bạn đứng đó lúc mấy giờ và hướng nào trên cùng một dòng sông.

Từ phố cổ Tiệp Khắc, dọc dài suốt đầu cho tới cuối chân cầu là rất nhiều bức tượng Baroque của Emanuel Max, mà tôi ngắm mãi tưởng như đã thuộc hết những nét uyển chuyển, mọi bố cục của từng bức một.

Không phải chỉ du khách, dân địa phương cũng náo nức líu lo, thưởng thức tiếng trumpet rộn ràng, guitar lóng lánh hay dìu dặt khúc vỹ cầm, mang mang theo dòng nước chảy xuôi dưới chân cầu.

Buổi chiều cuối cùng, tôi đứng bần thần giữa hàng trăm thiên hạ dập dìu qua lại, có gì như nhiều tiếc nuối, làm tôi chẳng còn muốn về lại California ngày mai.

California, nơi căn nhà nhỏ, có tranh của Nguyễn Trung, Đỗ Quang Em, Nghiêu Đề, Đinh Cường, Lê Tài Điển, Lâm Triết… có cả những tượng được sao chép lại của Michelangelo, Rodin, Bernini…

Phải chăng các tác phẩm mà sáng sáng tôi cùng ngồi café, và uống cạn những ly rượu đỏ tưng bừng mỗi tối, chúng đang xao xác chờ, réo gọi tôi trở lại?

Nhưng dù có nấn ná chần chờ cách mấy, thì cuối cùng ngày mai tôi cũng phải về nhà.

Trở lại với những sáng, những chiều, và cả những đêm dài thao thức.

Tôi sắp bay về để gặp lại tất cả tranh, và tượng đang lạnh tanh buồn rầu trong căn nhà nhỏ. Nơi đó, chúng cũng thức khuya, dậy sớm. Nơi đó, chúng tôi đã cùng nhau cảm nhận ra biết bao vui, buồn, chao đảo… Và tôi thừa hiểu rằng chúng chẳng hề lạnh lẽo như những tranh, tượng vô tri.

**********

Thẩn thơ đi dọc theo cầu Charles, vòng qua rồi vòng lại. Đi đến lần thứ ba thì tôi hiểu mình không còn có thể chối cãi gì được nữa. Buổi chiều cuối cùng nhìn dòng Vltava trong nắng tàn sắp tắt, tôi đang lắng tìm nghe trong gió, tiếng đàn chỉ mới vừa đêm qua, sao đã như rất xa xưa, và đã như rất cũ…

Hôm qua, theo chiếc cano xuôi trên dòng nước êm đềm của sông Vltava, ngước mắt ngắm Charles Bridge trong cái nắng gay gắt, cho dù mùa hè đã gần hết. Mắt tôi như phải mở lớn hơn, ghi nhận cho rõ một hình ảnh mà chỉ đạo diễn mới có thể nghĩ tới. Chiếc violin được giơ lên cao cùng với tóc tung bay, người nhạc sĩ chạy ùa trong nắng đã làm tôi nhớ tới phim Fiddler On The Roof. Hình ảnh này của Ông, chạy bay như gió với cây vỹ cầm trên cầu Charles, đẹp lung linh với chút vẻ giang hồ.

Rời khỏi cano, tôi bước nhanh theo tiếng violin thúc hối, ngạt ngào trong nắng. Khúc Élégie của Massenet.

Tiếng vỹ cầm thoát bay trên những từng mây trôi nổi. Tôi thấy tim mình như nghẹt thở mỗi khi được nghe những bản nhạc quen thuộc, mà tôi từng chìm đắm với Cafe và Artworks, trong căn phòng nhỏ đầy những tượng và tranh…

Dựa lưng vào thành cầu nóng rát, tôi không nghe mà đăm đăm nhìn. Có phải Art đã tạo ra nét đẹp, không chân phương mà đầy chất phong trần, lang bạt của Ông? Như chẳng còn chút nào tự chế, rất hồn nhiên tôi hỏi nếu Ông có thể nương theo tiếng hát tôi trong Ave Maria?

Ai có thể hát nhạc giáng sinh trong một ngày cuối hè nắng nóng? Nhưng không chút thắc mắc, tiếng violin vút cao và tôi hát, tiếng hát êm ái đầy thiết tha. Bản nhạc duy nhất tôi hát bằng tiếng Ý, học được từ ca đoàn của Italian Church tại Little Italy, thành phố tôi đang sống.

Ông ngạc nhiên, quấn quít với giọng Soprano không ngờ của tôi. Riêng tôi hiểu rằng, chúng ta sẽ hát hay và nồng nàn hơn, đàn sẽ dìu dặt, thanh thoát hơn khi con tim reo vui với những xúc cảm dạt dào, vô biên của chính nó.

**********

Với hai phần ăn nhỏ, ắp đầy những ly rượu trắng, chúng tôi ngồi uống với trăng. Trăng xanh bát ngát, rọi sâu xuống dòng nước êm ái của sông Vltava.

Chúng tôi nói về The Red Violin, cây đàn lưu lạc qua nhiều không gian, thời gian với những biến cố khiếp sợ, những tai ương, và nghiệt ngã… Nhưng vẫn có một tình yêu rực lửa, khi cây vỹ cầm chuyển đến tay một Violinist người Ý. Chàng nhạc sĩ bốc cháy với tiếng đàn khốc liệt, đảo điên. Đã đàn cùng lúc với những nồng nàn tuyệt vời, chìm đắm của yêu đương… Đoạn này của phim khi bàn tới, chúng tôi cùng thích nhất.

Đêm như sẽ chẳng bao giờ tàn, thánh thoát tôi hát Memory, bên tiếng đàn óng ánh và sôi nổi. Và khi biết tôi thích Chopin, lồng lộng giữa một đêm dài sắp hết, là bóng người violinist mờ ảo, chới với trong khúc nhạc Nocturne.

Khi chan hòa cùng Chopin, tiếng đàn Ông réo rắt, xa vời, và có chút gì đó bàng hoàng gần như nỗi chết… Đêm lặng thinh, nhưng đêm xôn xao cùng tôi với cây vỹ cầm ướt sương, và với cả ánh trăng đang dần phai nhạt.

Tôi đã không hỏi vì sao từ Florence Ông lưu lạc tới đây, đứng phong phanh giữa trời với tiếng đàn đắm đuối? Ông cũng chẳng thắc mắc xem tôi từ đâu mà đến tận chốn này…

Nhưng như hai nhân vật mơ mộng, sống bên ngoài trái đất. Chúng tôi mê muội bàn về chuyện sẽ cùng nhau đàn hát như Bohemian, lang thang trên những chân cầu, góc phố.

Violin, và tiếng hát tôi sẽ thoát xa khỏi những u minh, những tăm tối của nhân gian. Sẽ vọng cao lên mãi tới trời xanh cùng với gió, mơ hồ rồi mất tăm ở cuối chân trời…

Cuối cùng tôi đành phải hỏi thăm cô họa sĩ, dù cô đang bận rộn với những chân dung.

Mới biết ra Ông chỉ tới đây ba ngày một tuần, còn lại là đàn ở những con phố khác.

Bây giờ tôi mới ân hận vì đã không hỏi han gì, và chính Ông, ngày mai cũng sẽ chẳng hiểu vì sao tôi đã không còn trở lại?

Và như thế, tôi sẽ chẳng còn có bao giờ nghe lại tiếng đàn trác tuyệt, nương cùng với tiếng hát tôi chìm đắm.

Chúng tôi đã cùng biến mất, đã như gió tản bay, rồi mất tăm trên dòng sông có chiếc cầu Charles cũ kỹ.

**********

Đêm đầu tiên trở lại căn nhà nhỏ, ánh trăng tận Đông Âu đã theo tôi về đây. Tắt hết đèn đóm, phòng tôi ngồi trắng xóa.

Trăng nằm nghiêng trên những phím đàn. Nghĩ tới Clair De Lune nhưng đôi tay chợt lạnh giá, làm sao tôi vói tới ánh trăng vời vợi của Debussy?

Bắt chước Ông, tôi đổ rượu lên tay, rượu nồng một mùi hương quyến rũ. Từ nay tôi sẽ làm thế cho ấm bàn tay lạnh, mỗi khi ngồi với Piano. Ít nhất thì chúng tôi cũng có một thói quen chung, để hàng ngày theo cùng với hương nồng, tôi tưởng ra bóng dáng người Violinist ẩn khuất, thấp thoáng, và dập dìu cùng với những tranh và tượng.

Âm thanh se sắt của Violin rồi sẽ trầm bổng bên tôi, trong gian nhà bé nhỏ…

Bằng bàn tay còn thơm ướt, tôi vói cây vỹ cầm, loại đàn mà tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện học, chỉ có như một trang trí. Ôm sát trong đôi tay, lần đầu tiên tôi thấy yêu mến nó, dù mua đã rất lâu ở một chợ trời.

Không dữ dội như violin phải sơn bằng máu trong The Red Violin. Nhưng khi mua về, tôi đã để nguyên không muốn lau chùi. Bởi thấm đẫm trong từng sớ gỗ nhỏ phải là những mồ hôi, những mùi vị của đắng cay, khổ đau hay tuyệt vọng. Hoặc dạt dào trong cây đàn cũ, đã là âm vang của rất nhiều những hân hoan, dấu yêu và hạnh phúc…

François Girard cho những dòng máu tung tóe, âm thầm, len lỏi chảy trong từng chút âm thanh, khi cuồng nộ, lúc thanh thoát véo von…

Tôi đang ghì siết cây violin và để yên cho nước mắt rơi. Nước mắt tôi không thể là máu, vẫn đẫm ướt cây vỹ cầm yêu dấu.

Và hơi thở tôi, đang phả dài trên những sợi dây đàn.

Hơi thở, đã làm ấm thêm giấc mơ não nùng, nhưng đầy mụ mị và hoang tưởng của chúng tôi trong một đêm trăng sáng.

BOHEMIAN. Từ chân cầu, góc phố… Xa mãi và, sẽ biến mất cuối chân trời.

Lê Chiều Giang

* Charles Bridge: nhịp cầu cổ trên dòng sông Vltava, Tiệp Khắc.

* Fiddler on the roof. Director: Norman Jewison

* Memory: Trevor Nunn

* Nocturne #20 in C sharp minor: Chopin

* Clair de lune: Debussy

* The red violin. Director: François Girard

Tượng chưa thành tượng

                                                                         “…Ngồi đây ta gõ ván thuyền

                                                                          Ta ca trái đất chỉ còn riêng ta…”

                                                                               Trương Chi / Văn Cao

Rong chơi không phải là lẽ sống của đời, nhưng có nhiều giai đoạn ở Saigòn, chúng tôi chẳng còn biết tính toán ra sao, ngày mai sẽ như thế nào, và định làm gì cho tuần tới?

Đó là thời điểm sau 1975. Miền nam Việt Nam bàng hoàng vì mọi thứ bị dập vùi, đất nước bỗng dưng mà biến đổi thê lương. Chán chường và tuyệt vọng, nên dù đời sống cứ phải ngồi bần thần, hay chạy đua cùng lam lũ… thì một số những văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn xao xác với chuyện tụ tập và rong chơi.

Không phải chỉ riêng tại căn chung cư nhỏ của chúng tôi ở Cư xá Thanh Đa, mà còn có bên Làng Báo Chí với nhà chị Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, nhà anh Nguyễn Đình Toàn, và đặc biệt là ở nhà anh Trương Đình Quế, một Điêu khắc gia hào phóng và rất đông bè bạn.

Chuyện đáng nhớ nhất về anh, trong một tối cafe nơi quán nhỏ, vui miệng anh nói vài lời dịu dàng với cô chủ quán xinh xinh. Đanh đá và đầy kiêu ngạo, Cô thách, nếu Anh dám ăn hết lá xanh của cây ớt kiểng ngay cạnh bàn cafe đó, thì Cô sẽ làm bạn với Anh.

Vậy mà Trương Đình Quế ngồi đến khi quán sắp đóng cửa, cam tâm bứt hết những lá ớt, và suốt 2 tiếng, nhẩn nha Anh ăn một lèo như thỏ trong tiếng cười vui của chúng tôi.

 Anh sống hồn nhiên, xem những học trò học điêu khắc của mình trong trường Mỹ Thuật Gia Định như bạn nhậu, la cà cafe thuốc lá… Ban giám đốc của trường viết thư cảnh cáo đôi lần, Trương Đình Quế nổi giận bỏ luôn trường từ đó.

Anh sẵn sàng chọn thú vui ngồi thù tạc với đám học trò chịu chơi, sống bạt mạng, hơn là cố phải ra vẻ đĩnh đạc, nghiêm trang như một người thày giảng dạy.

—————————

Thời đó, một số Văn nghệ sĩ từ miền Bắc hay tìm đến chơi với dân Văn nghệ Sài Gòn. Họ như muốn tìm hiểu về những sinh hoạt của văn nghệ sĩ miền Nam.

Họa sĩ Bùi Quang Ngọc, em của nhà văn Bùi Quang Đoài trong Nhân Văn Giai Phẩm. Nhạc sĩ Trần Tiến hay Dương Thụ… Tôi nhớ mãi tiếng hát Trần Tiến lúc ngà ngà say, Anh có chút vẻ giang hồ là lạ, mang mang như cái nắng cái gió của Hà Nội…

Đặc biệt, trong một buổi trà dư tửu hậu, căn chung cư nhỏ của chúng tôi đã không đủ chỗ quây quần cho rất đông bạn bè. Chúng tôi ngồi quanh một thi sĩ vừa vào thăm Saigon. Thi sĩ Hoàng Hưng.

Đêm đó Thanh Đa cúp điện, thơ Apollinaire như lãng mạn thêm với ánh đèn dầu không sáng, lại cũng chẳng thể tối hơn. Anh Hoàng Hưng đọc những vần thơ bàng bạc u sầu, trong tiếng gió êm đềm cùng trăng sáng, bên dòng sông nhỏ trước hiên nhà.

Tiếng Pháp tôi không hiểu hết, nhưng qua giọng đọc truyền cảm của anh, Thơ như đã dạt dào thêm, đã miên man lắng đọng hơn cùng với nhiều xúc cảm.

“…J’ai cueilli ce brin de bruyère

L’automne est morte souviens-t’en

Nous ne nous verrons plus sur terre…”

Khó mà ai có thể tưởng tượng, chỉ mấy năm sau, người Thi sĩ mà chúng tôi rất quí mến này đã bị giam tại Hỏa Lò tới 3 năm, chỉ vì cầm tập bản thảo “Về Kinh Bắc” của Hoàng Cầm.

…………………

Trong một buổi họp mặt tại nhà Trương Đình Quế bên làng Báo Chí. Anh đã mời không thiếu một ai trong ngày dự định thực hiện bức tượng Văn Cao. Sự hiện diện của nhạc sĩ Văn Cao mà tôi và Nghiêu Đề hằng ngưỡng mộ trong suốt bao năm dài, khiến chúng tôi không thể không có mặt.

Lao xao, rộn rã và cả với ngậm ngùi… Chúng tôi ngồi quanh những hộp đất sét. Đất vô giác, đất vô tri rồi sẽ qua bàn tay khéo léo đầy sáng tạo của Trương Đình Quế, để thành chân dung Văn Cao, như Nhạc sĩ từng mong đợi.

Đẹp xấu thế nào chưa ai biết nhưng trước tiên phải là Rượu.

Rượu rót tràn ly, rượu mời chào rộn rã. Chưa ai kịp nâng ly, bỗng Trịnh Công Sơn lên tiếng phàn nàn: “Mi đãi Trịnh Công Sơn và Văn Cao mà bằng rượu nếp than này sao?”

Trương Đình Quế cố gắng chống chế, nhưng cũng đỏ mặt buông lời bất bình: “Anh em có gì uống nấy, vui chơi thôi, tên tuổi gì ở đây, mấy cha?…”

Trịnh Công Sơn bỏ về, chỉ chào duy nhất Văn Cao.

Một thoáng lặng im, mọi người nhìn nhau; nhưng chỉ vài phút sau, mạnh ai nấy huyên thuyên, cười nói. Ai đi, ai bỏ về, thiên hạ… quên hết.

Riêng nhạc sĩ Văn Cao, người duy nhất có vẻ còn lấn cấn chuyện Trịnh Công Sơn, ông cầm ly hướng về phía tôi: “Mời người trẻ nhất!”.

Chị Thụy Vũ đưa ly rượu của chị cho tôi. Lần đầu tiên nhấp chút rượu, môi đắng ngắt với chất nồng nồng cay làm tôi say sưa nhớ.

Nhớ Suối Mơ, nhớ Bến Xuân, nhớ Buồn Tàn Thu và nhớ cả Thiên Thai… Tôi nhớ một trời của

những thanh bình cũ dù chẳng biết gì về Hà Nội, nhưng tôi hay mơ màng qua nhạc của Văn Cao. Những cung bậc êm đềm, huyền ảo và thanh thoát.

Phong cách uống của Văn Cao hơi khác mọi người. Ông ngồi như thiền rất lâu trước ly rượu đầy. Thiên hạ xong ly thứ ba, Ông mới đủng đỉnh bắt đầu ly thứ nhất. Rượu nồng hơn hay là đã nhạt? Văn Cao mặt tái dần với chòm râu trăng trắng. Ông uống và Ông cứ uống…

Để yên cho Trần Quang Lộc tha hồ múa cùng bè bạn. Trương Đình Quế phác thảo chân dung Văn Cao. Qua giấy, tôi thấy đã đủ đẹp, dù chỉ bằng bút chì.

 Rất ồn ào, thiên hạ cười nói, tôi nghĩ cả Trương Đình Quế lẫn Văn Cao, không ai tập trung đủ cho bất cứ điều gì, trong một không khí đông người như thế.

———————–

Bạn bè rồi tan tác.

Mỗi người một phương. Như chúng tôi rồi cũng bỏ nước ra đi…

20 năm sau tôi trở lại Làng Báo Chí. Vẫn nụ cười nhàn nhã, thảnh thơi, vẫn Trương Đình Quế hồn nhiên và ấm áp. Tôi ngồi dùng bữa cơm chiều cùng Anh Chị, lan man với nhiều chuyện cũ mới.

Anh chỉ tôi xem tượng Trịnh Công Sơn, tượng Bùi Giáng…

Lăn lóc trong góc nhỏ, một chân dung nào đó chưa thành hình.

 Khối đất sét nứt nẻ như những vết thời gian chồng chéo trên mặt. Thêm vài vết xẻ dọc dài trên trán, trông thật giống những sợi tóc mỏng loà xoà. Đôi mắt khoét sâu chưa ra một ánh nhìn, nhưng trong trũng sâu của đôi mắt tối, tôi chợt hình dung ra những lao lung những cay đắng của một đời người.

Tôi không hỏi, Trương Đình Quế cũng chẳng nói là ai.

Chúng ta có cần phải đặt một cái tên nào cho những chân dung chưa thành hình, những gương mặt còn nguyên si với nhiều méo mó?

 Vả chăng, tôi sợ những đẽo gọt, những mài dũa cho ra đúng một chân dung nào đó, đã nhiều khi làm biến mất, làm nhạt phai những kỷ niệm trong một buổi chiều sắp tàn của những năm xưa.

Tôi nhặt bức tượng mãi vẫn chưa thành tượng, trang trọng đặt lên bệ cửa sổ.

Chút nắng nhạt của chiều hắt trên hố mắt trũng sâu, sắc như một đường dao cắt. Nhạc sĩ Văn Cao.

  • “ L’ Adieu”

            Guillaume Apollinaire

Lê Chiều Giang

Bố cáo thất tung

Cắm cổ.
Ta chạy bừa phía trước
Đêm trắng toát
Đêm,
trắng toát
Có tiếng nói nào trên trời kia
Dẫn dắt ta về nơi
…không biết

Ta ra đi
Bàn chân u mê
Thôi,
Chắc không tìm đường trở lại
Những gì chờ
Ở nơi sắp tới
Bếp ấm?
Hay tro tàn
Một ngày?
Hay trăm năm
Ta thật,
không biết.

Nếu chẳng thấy ta thành phố này
Cũng đừng
gắng tìm ở nơi khác
Thôi,
Hãy đăng:
“Bố cáo thất tung”
Cứ nghĩ như ta vừa
Mất tích.

Lê Chiều Giang

Tháng mười một cuối cùng

Chẳng nợ nần ai mà ta trả

Một triệu lần hơn

điều ta có

Đến khi,

Nhang khói mịt mù bay

Là lúc tim ta đầy hãi sợ

Tiếng chuông

Vọng xa vời trong gió

Thấp thoáng hồn ai?

Khắp bốn phương

Nhà xưa,

Ta đốt bừng bừng cháy

Tàn tro lấp kín cả nhân gian

Ta ôm hết

Cả than, và lửa

Rực rỡ hoàng hôn

rực rỡ đêm

Vung vãi chút nồng nàn trong mắt

Ta chết.

Trong vòng tay… rất quen

Lên Đồng

Ta ngồi một mình
Trên nóc nhà
Buổi sáng,
trước ngày bỏ đi
Khói thuốc tan trong mây
Rượu
đổ đầy máng xối
Ôi, ngày xưa
Nhà xưa
Người xưa

Ta hét.
Ta la.
Khô quắt phổi
Ta đứng rất cao
Không vói tới
Những hồn ma trôi nổi
Lãng đãng
vật vờ bay…
Nhưng ta nghe ra rõ tiếng người
Ta nghe ra,
Lời xưa to nhỏ
Ném hết nhang tàn
Tung toé…
trời xanh
Ta hát như điên
trong cơn đồng thiếp.

Nhân duyên

Ta uống.
Rượu phạt hay
Rượu mời?
Uống cách nào cũng. Chết
ngay thôi
 Vẫn không sợ!
Yêu.
Thêm lần nữa
Tìm.
 Kiếm.
trong đêm ánh mặt trời

Bóng nắng có khi làm rát mặt
Có khi làm tóc cháy, khô môi
Người như cơn gió hay
Mưa bão?
Hắt xuống đời ta vạn tiếng cười

Ném xuống trần gian ngàn tia lửa
Đốt bỏng nhau. Rồi
Tan như hơi.

Bỏ Nhà

Cánh cửa
Sầm. Đóng lại
Chìa khoá?
Quăng lên trời
Ta,
Bước chân phiêu bạt
Tay không
bày cuộc chơi

Lưu Linh? Ờ, Lưu Linh
Tản Đà? Ta… chấp hết!
Cà phê? Dạ Khổng Tử
Ngàn ly, chưa thấm tháp
Mắt sắc như kiếm dao
Chém chơi vài
Phạm Thái
Đàn đứt dây, lỡ nhịp
Hết hơi
đêm chưa tàn
Ta hát lời ly biệt
Tử Kỳ
chết, dưới trăng

Đứng giữa trăm ngả đường
Không lui
và chẳng tới
Ta như đêm
Mịt mù
giữa trùng trùng duyên khởi
Quanh một vòng trái đất. Thèm
Trở lại chốn xưa
Ngồi bên hè phố cũ
Tỉ tê
Khóc nhớ nhà.

Lê Chiều Giang

Leave a comment